BÀI BÀO CHỮA CHO PHẠM CÔNG DANH TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM TP. HCM

BÀI BÀO CHỮA CHO PHẠM CÔNG DANH TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM TP. HCM
 
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Kính thưa hai vị đại diện Viện kiểm sát và Quý luật sư đồng nghiệp,
 
Tôi, luật sư Nguyễn Văn Trung thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM cùng với 3 đồng nghiệp đảm nhận bào chữa cho Bị cáo Phạm Công Danh, bị VKSND tối cao truy tố và TAND TP.HCM đưa ra xét xử về 2 tội danh “cố ý làm trái quy định của Nhà Nước về quản lý kính tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “vi phạm quy định về cho vay trong 
hoạt động của các tổ chức tín dụng” theo khoản 3 Điều 165 và khoản 3 Điều 179 Bộ Luật Hình sự. Tiếp theo phần bào chữa của Luật sư Phan Trung Hoài, tôi xin trình bày ý kiến bào chữa của tôi như sau:
 
Lời đầu tiên phải nói là tôi hết sức khâm phục Cơ quan CSĐT-Bộ CA và VKSND.TC đã tập trung công sức, 
vất vả gần 2 năm trời, trong suốt quá trình khởi tố, xác minh thu thập chứng cứ, với Bản kết luận điều tra lên đến 222 trang kèm theo 9 phụ lục và Bản cáo trạng dày 123 trang kèm theo 7 phụ lục dày 13 trang, truy tố 36 bị can ra trước vành móng ngựa với 2 tội danh nêu trên.
Ban chỉ đạo TW về Phòng chống tham nhũng xác định đây là “vụ án trọng điểm”; báo chí, công luận gọi đây là “Đại án Phạm Công Danh” quy kết Phạm Công Danh phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đã gây thiệt hại lớn nhất từ trước đến nay với số tiền lên đến 9.000 tỷ đồng cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB)!
Thực tế, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và nghe xét hỏi công khai tại phiên tòa suốt mấy tuần qua, tôi hết sức băn khoăn, trăn trở trước số phận không chỉ của Phạm Công Danh, mà là đối với tất cả 36 bị cáo đang phải đứng trước vành móng ngựa hôm nay. Vì vậy, với tất cả trách nhiệm và lương tâm của người luật sư, tôi cố gắng bằng tất cả khả năng của mình thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 58 Bộ luật 
Tố tụng hình sự là “sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo”, với mong muốn duy nhất là góp phần “xác định sự thật khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo” theo quy định tại Điều 10 Bộ Luật Tố tụng hình sự, để Hội đồng xét xử có thêm căn cứ ra một phán quyết hết sức công minh, thấu tình đạt lý.
Trước hết, đây có phải là đại án tham nhũng gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam 9.
000 tỷ đồng không? Nội dung  Kết luận điều tra, Cáo trạng và kết quả xét hỏi công khai tại phiên tòa cho thấy không hề có hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay lạm quyền… quy định tại chương XXI Mục A-Các tội phạm về tham nhũng trong Bộ Luật Hình sự.
Thứ đến, có phải bị cáo Phạm Công Danh đã gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam số tiền 9.
000 tỷ không? Về việc này, LS Phan Trung Hoài đã trình bày cụ thể liên quan đến quy kết thiệt hại 7.000 tỷ trong phần tội danh “Cố ý làm trái…”. Về phần mình, tôi sẽ trình bày cụ thể sau trong phần nội dung vụ án. Ở đây, tôi chỉ nêu một số tình tiết để minh chứng: Tháng 6/2012 khi Phạm Công Danh mới mò mẫm tìm hiểu Ngân hàng TMCP Đại Tín thì thực trạng Ngân hàng theo Kết luận thanh tra xác định đến 29/02/2012 vốn chủ sở hữu đã bị âm 2.854 tỷ đồng, lỗ lũy kế 6.061 tỷ đồng gần gấp 2 lần vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trên báo cáo tài chính năm 2011, luôn có nguy cơ đổ vỡ, đang trên bờ vực phá sản. Đến sau ngày Đại hội cổ đông 07/02/2013, Phạm Công Danh mới chính thức bước chân vào Ngân hàng Đại Tín, thì theo Cáo trạng thực trạng ngân hàng còn tệ hại hơn: theo Báo cáo tài chính VNCB (đã được kiểm toán) thì lỗ lũy kế đã tăng lên 8.765,835 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 5.711,1 tỷ đồng. Nghị định 57/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 về chế độ tài chính của tổ chức tín dụng, tại Điều 5 quy định: “giá trị thực của vốn điều lệ được xác định bằng vốn điều lệ thực góp cộng lợi nhuận chưa phân phối hoặc trừ đi lỗ chưa xử lý”. Như vậy, tại thời điểm cuối năm 2012, VNCB chẳng những mất vốn điều lệ mà giá trị cổ phần VNCB còn bị âm gần 20.000 đồng/cổ phần! Trong tình trạng như vậy, đáng lý ra chỉ mua 0 đồng/cổ phần, thế mà Phạm Công Danh và tập Đoàn Thiên Thanh đã cả gan dám mua lại Ngân hàng Đại Tín với giá 4.484,61 tỷ đồng (thực tế đã chi trả 3.600 tỷ đồng), đồng thời ra sức huy động toàn bộ vốn liếng, tài sản của cá nhân và của tập đoàn Thiên Thanh, phải vay nóng, vay lạnh đổ thêm vào Ngân hàng Đại Tín gần 10.000tỷ đồng để bảo đảm thanh khoản và duy trì hoạt động của 22 Chi nhánh khắp cả nước với hơn một ngàn cán bộ, nhân viên của Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam. Đau xót thay, chỉ hơn hai năm sau, ngày 05/3/2015 Ngân hàng Nhà nước mua bắt buộc VNCB với giá 0đồng/cổ phần, đồng thời còn kế thừa toàn bộ quyền đòi nợ của VNCB, quản lý toàn bộ tài sản của Tập đoàn Thiên Thanh đang thế chấp hợp pháp tại VNCB để thu hồi nợ 4.700 tỷ đồng! Chúng tôi được biết đến tháng 7/2016, tức là chỉ hơn một năm sau ngày NHNN mua 0đồng/cổ phần, NHNN đã công nhận Ngân hàng TMTNHHMTV Xây dựng Việt Nam (CB) có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh trong kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai theo Điều 56 Luật Kinh doanh Bất động sản! Đúng là phép mầu! Phải chi phép mầu này được NHNN ra tay thực hiện ngay từ cuối năm 2012, sau khi có Kết luận Thanh tra, thì vụ án Phạm Công Danh đã không xảy ra, và những người đứng trước vành móng ngựa hôm nay, nếu có, cũng không phải 36 bị cáo này!
Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam VNCB là do Tập 
đoàn Thiên Thanh (Phạm Công Danh đại diện) làm chủ sở hữu. Hoạt động của Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của Tổ Giám sát Ngân hàng Nhà Nước, tài sản của Tập đoàn Thiên Thanh đưa vào Ngân hàng và các tài sản thế chấp khác vẫn còn nguyên vẹn đó. Vậy, thì căn cứ vào đâu để nói Phạm Công Danh gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam 9.000 tỷ đồng? Mà nếu Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam bị thiệt hại thì Tập đoàn Thiên Thanh và Phạm Công Danh mới chính là người bị thiệt hại đầu tiên!
I/-VỀ TỐ TỤNG:
Trong phần thủ tục mở đầu phiên tòa, đại diện VKSND TP. HCM và Chủ tọa phiên tòa đều cho rằng việc cơ quan điều tra căn cứ Điều 117 Bộ Luật 
tố tụng hình sự tách các hành vi và sự việc để tiếp tục điều tra là đúng, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị cáo bị truy tố.
Trong phần xét hỏi công khai và trước khi đi vào phần tranh luận, Chủ tọa phiên tòa nhiều lần căn cứ Điều 196 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định về giới hạn của việc xét xử, luôn nhắc nhở các bị cáo, luật sư và cả đại diện Viện Kiểm sát không được đề cập đến các hành vi, vụ việc đã được cơ quan điều tra tách ra, cáo trạng không đề cập.
 Về việc này chúng tôi xin có ý kiến như sau:
       -Khoản 2 Điều 117 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định: “Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án”.
       -Điều 10 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”.
       -Điều 66 khoản 2 quy định: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết vụ án”.
       Từ các quy định nêu trên cho thấy việc cơ quan điều tra tách ra để điều tra tiếp các hành vi và sự việc nêu tại phần B mục I điểm 5 (trang 213) Bản Kết luận điều tra rõ ràng đã ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án một cách khách quan 
toàn diện và đầy đủ, ảnh hưởng đến việc xác định đánh giá chứng cứ, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị cáo. Bởi lẽ, cùng một hành vi,cùng một nguyên nhân, động cơ, mục đích xảy ra trong cùng thời gian, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng tách ra xử bằng nhiều vụ án thì tránh sao khỏi các bị cáo bị án chồng lên án
-Điều 196 Bộ Luật TTHS quy định: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố”.
Chúng tôi hiểu quy định này là căn cứ nguyên tắc “có lợi cho bị cáo”, Tòa án vẫn phải bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ theo Điều 10 và Điều 66 khoản 2, chứ không có nghĩa hạn chế những người tham gia tố tụng không được đề cập đến những tình tiết của vụ án, mặc dù đã được tách ra hoặc không nêu trong cáo trạng. Thậm chí nếu phát hiện chứng cứ mới có lợi cho bị cáo, luật sư cũng có quyền xuất trình giao nộp cho Tòa án. Trong phần luận tội ngày hôm qua, đại diện VKS đã đề nghị khởi tố hàng loạt người mà  KLĐT và Cáo trạng đã  không xem xét trách nhiệm hình sự hoặc tách ra trong vụ án khác. Ngoài ra còn có rất nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ mà ls Phan Trung Hoài đã nêu và tôi sẽ tiếp tục bổ sung ở phần sau. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 179 Bộ Luật TTHS quy định: “Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp: “Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung từ phiên tòa (điểm a), khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội mới hoặc có đồng phạm (điểm b)”. Chúng tôi nhận thấy cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ sung thì mới đáp ứng được các đề nghị của đại diện VKS và mới xác định được sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Do đó, căn cứ điểm a 
khoản 3 Điều 58 quy định nghĩa vụ người bào chữa và Điều 218 Bộ Luật TTHS, kính đề nghị Chủ tọa phiên tòa tạo điều kiện cho luật sư chúng tôi tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình, miễn là các ý kiến đó liên quan đến vụ án.
II/-VỀ HÀNH VI VÀ TỘI DANH: “Vi phạm quy định cho vay….”
Theo phân công trong nhóm luật sư chúng tôi bào chữa cho bị cáo Phạm Công Danh, Ls Phan Trung 
Hoài bào chữa phần tội danh “cố ý làm trái…”, tôi bào chữa phần tội danh “vi phạm quy định cho vay…”, bổ sung những vấn đề khác nếu thấy cần thiết và có kiến nghị sau cùng. Đối với các hành vi mà Cáo trạng (trang 62) quy buộc Phạm Công Danh vi phạm các quy định cho vay, được đại diện VKS nhắc lại ở phần luận tội, chúng tôi xin có ý kiến như sau:
1/-Vi phạm Điều 126 Luật các TCTD:
Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sở bảo đảm của đối tượng quy định tại khoản 1 điều này (trong đó có thành viên HĐQT…)
Các Công ty Hương Việt, Quốc Thắng, Nhất Nhật Minh, 
Toàn Tâm… đều là các pháp nhân độc lập. Các Công ty này dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thuộc Dự án khu phức hợp Dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng TP. Đà Nẵng, để đảm bảo cho các khoản vay. Tài sản này không phải thuộc quyền sở hữu cá nhân Phạm Công Danh là thành viện HĐQT Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam, nên không thể quy kết Phạm Công Danh bảo lãnh cho các khoản vay này. Vì vậy, Phạm Công Danh không vi phạm Điều 126 Luật các TCTD.
2/-Vi phạm các quy định của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như: Điều 6 quy định về sử dụng vốn vay, Điều 7 quy định về điều kiện vay vốn, Điều 15 quy định về thẩm định và quyết định cho vay, Điều 19 quy định về những trường hợp không được cho vay đối với khách hàng là thành viên HĐQT, Điều 21 quy định về kiểm tra giám sát vốn vay. Về các quy kết này, tôi xin có ý kiến như sau:
-Về vi phạm Điều 6 và Điều 7:
       +Về mục đích vay vốn: khi khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, thì Ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 25 Quy chế cho vay.
       +Về điều kiện vay vốn: Hồ sơ thể hiện các Công ty vay vốn là pháp nhân được thành lập hợp pháp; có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và đều có tài sản thế chấp hợp pháp bảo đảm 
khoản vay, nên hội đủ các quy định tại Điều 6 và Điều 7 Quy chế cho vay.
-Vi phạm Điều 15 về thẩm định và quyết định cho vay: Hồ sơ vay đã được Chi nhánh thẩm định, Hội đồng thẩm định Chi nhánh đề xuất và thông qua Hội đồng tín dụng Hội sở đồng ý. Việc lấy ý kiến Hội đồng tín dụng Hội sở không có gì sai, vì tất cả đã đồng ý ký tên và ghi ý kiến của mình vào Biên bản, thể hiện ý chí và trách nhiệm của các thành viên.
-Vi phạm Điều 19 về trường không được cho vay đối với khách hàng là thành viên HĐQT: Như trên đã phân tích, các pháp nhân được thành lập hợp pháp ký hợp đồng vay, bảo đảm bằng tài sản có quyền sở hữu hợp pháp của pháp nhân, không phải cá nhân Phạm Công Danh là thành viên HĐQT Ngân hàng vay, nên không vi phạm Điều 19.
-Vi phạm Điều 21 về kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng: Việc này thuộc trách nhiệm Chi nhánh. Theo quy định tại Điều 25 Quy chế cho vay, Ngân hàng có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm vốn vay theo thỏa thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định pháp luật (nghĩa là khởi kiện khách hàng để phát mãi tài sản bảo đảm thu hồi nợ). Mặt khác, theo quy định tại Điều 22 Quy chế cho vay thì trường hợp khách hàng không trả được nợ gốc, lãi đúng hạn thì ngân hàng có thể xem xét cho điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ.
3/-Căn cứ chứng thư thẩm định giá ngày 04-9-2014 của Cty CP thông tin và thẩm định giá Miền Nam, thẩm định giá trị TSTC chỉ có giá trị là 2.604.070.565.200đồng, Cáo trạng quy kết: Đến nay VNCB không thu hồi được số tiền 2.095.929.434.800đ (4.700.000.000.000đ- 2.604.070.565.200đ) đã cho các Cty của Phạm Công Danh vay. Hành vi nêu trên của Phạm Công Danh đã phạm vào tội “vi phạm quy định về cho vay trong 
hoạt động của các TCTD”, quy định tại khoản 3 Điều 179 BLHS. Chúng tôi xin có ý kiến như sau:
Điều 179 Bộ Luật Hình sự quy định: Người nào trong 
hoạt động tín dụng mà có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng:
a)   Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật.
b)   Cho vay quá giới hạn quy định
c)   Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong 
hoạt động tín dụng.
Như vậy, 2 dấu hiệu của tội danh này là: Vi phạm quy định về cho vay và gây hậu quả nghiêm trọng, trong đó dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc. Cho dù có vi phạm quy định về cho vay, nhưng không gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng không cấu thành tội phạm mà cùng lắm chỉ bị xử phạt hành chính. Vấn đề cầm làm rõ ở đây là: Thực tế VNCB có bị thiệt hại 2.095.929.434.
800 đồng không và VNCB?
-Về thiệt hại: Theo quy định tại các Điều 336, 338 và 355 Bộ Luật Dân sự; Điều 56 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; 
khoản 1 Điều 25 Quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước: Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà bên có nghĩa vụ trả nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận thì TSTC được xử lý theo phương thức do các bên thỏa thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ. Tiền bán TSTC được ưu tiên thanh toán cho bên nhận thế chấp, nếu còn thừa thì phải trả lại cho bên thế chấp, nếu còn thiếu thì bên thế chấp phải trả tiếp phần còn thiếu.
Tài sản thế chấp cho các khoản vay theo quy định tại các 
khoản vay là “Quyền sử dụng đất Dự án khu phức hợp dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng, Hải Châu II, quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng”, đã được cấp giấy CNQSD đất và đăng ký giao dịch bảo đảm hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Thời điểm cho vay, theo chứng thư thẩm định giá ngày 24-12-2012 của Cty CP tư vấn, dịch vụ về tài sản, bất động sản DATC-Bộ Tài chính thì tổng giá trị quyền sử dụng đất là 10.414.687.000.000đồng. Điều 115 Luật Đất đai quy định:
-Tư vấn xác định giá đất được thực hiện khi thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến giá trị đất cụ thể mà các bên có yêu cầu (điểm c khoản 1 Điều 115).
-Việc xác định giá đất của tư vấn xác định giá đất phải độc lập, khách quan, trung thực và tuân theo nguyên tắc, phương pháp định giá đất quy định tại Điều 112 của Luật này (khoản 3 Điều 115).
Điều 112 Luật Đất đai 
khoản 1 quy định: Việc định giá đất đai bảo đảm các nguyên tắc sau đây:
       
A)Theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá.
       
B)Thời hạn sử dụng đất
       
C)Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có có cùng mục đích sử dụng.
Đối với các lô đất thế chấp, UBND TP Đà Nẵng đã có Quyết định số 6638/QĐ-UB ngày 06-9-2010 phê duyệt sơ đồ ranh giới sử dụng khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng.
Ngày 09-9-2010 UBND. TP. Đà Nẵng đã có Quyết định số 6836/QĐ-UBND thu hồi khu đất để thực hiện chủ trương xây dựng khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng. Ngày 12-10-2010, Chủ tịch UBND. TP Đà Nẳng đã có văn bản số 6381/UBND-QLĐTH đồng ý cho phép Tập 
Đoàn Thiên Thanh được đầu tư vào dự án khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng theo ranh giới sử dụng đất được UBND. Thành phố phê duyệt tại Quyết định số 6638/QĐ-UBND ngày 06-9-2010. Ngày 20-01-2011, UBND TP. Đà Nẵng có Quyết định số 704/QĐ-UBND phê duyệt sơ đồ ranh giới chuyển quyền sử dụng đất khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng cho Cty TNHH Tập đòan Thiên Thanh. Mặc dù cùng ngày 13/9/2010, UBND TP Đà Nẵng đã ban hành 4 Quyết định (từ số 6966 đến số 6669/QĐ-UBND), về việc phê duyệt tỷ lệ quy hoạch chi tiết 1/500 các Khu tái định cư để thực hiện việc tái định cư cho các hộ giải tỏa giải phóng mặt bằng thuộc Khu vực dự án, nhưng thực tế chi phí đền bù giải tỏa di dời do Tập đoàn Thiên Thanh chi trả. Ngày 25/01/2011, Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng đã có công văn số 482/UBND-ĐBGT nói rõ:
1.            Đồng ý chủ trương giữ lại nguyên trạng một số công trình hiện hữu trên khu vực đất dự án sau khi chi trả tiền đền bù để Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh sử dụng triển khai các khu vực chức năng như: Văn phòng làm việc của các Ban quản lý dự án, , Văn phòng giao dịch, kho nguyên vật liệu thi công, cụ thể:

A) Các khu nhà giáp 4 mặt tiền đường Hùng Vương- Ngô Gia Tự- Triệu Nữ Vương- Lê Duẫn (nằm trong khoảng lùi của công trình chính).
B) Một số công trình bên trong Sân vận động Chi Lăng (sẽ phá dỡ bỏ những hạng mục không cần thiết).
2. Yêu cầu Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh làm việc trực tiếp với UBND quận Hải Châu, Ban Giải tỏa đền bù các dự án ĐT-XD số 1, Công ty Quản lý và Khai thác đất Đà Nẵng  và các đơn vị liên quan:

A) Thống nhất xác định cụ thể các khu vực cần giữ lại để có kế hoạch bàn giao mặt bằng hợp lý.
B) Xác định giá trị hỗ trợ lại cho các chủ sử dụng thay vì tháo dỡ, tận thu tài sản; đồng thời có kế hoạch phân trách nhiệm cụ thể giữa chủ đầu tư và Hội đồng giải phóng mặt bằng dự án, báo cáo UBND Thành phố quyết định để có cơ sở triển khai thực hiện.
           Trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư thì việc đền bù giải tỏa nhà phố cư dân, giải phóng mặt bằng là khâu căng thẳng nhất, tốn kém nhất! Đây lại là khu vực đắc địa Trung tâm thành phố với 4 mặt tiền trục đường chính. Vì vậy chi phí đền bù giải phóng mặt bằng đối với gần 100 hộ dân  4 mặt phố mà Tập đoàn Thiên Thanh đã phải bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng, nhưng không thể hạch toán sổ sách (giống như chi “chăm sóc khách hàng gửi tiền”!).
  Ngày 28-01-2011, UBND TP. Đà Nẵng đã cấp 10 Giấy CNQSD đất cho 10 Cty thuộc Tập đoàn Thiên Thanh, Giấy CNQSD đất ghi rõ mục đích sử dụng đất là “Đầu tư dự án khu phức hợp dịch vụ cao tầng (theo đơn giá đất ở)” với thời hạn “sử dụng lâu dài”.
Ngày 07-6-2012, Chủ tịch UBND TP. Đà Nẳng có văn bản số 4060/UBND-KTTA xác nhận Cty TNHH Tập 
đoàn Thiên Thanh đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính, nhằm tạo điều kiện cho Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh triển khai thực hiện đầu tư phát triển dự án khu phức hợp thương mại dịch vụ cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng.
Chứng thư thẩm định giá ngày 24-12-2012 của DATC Bộ tài chính ghi rõ:
-Tài sản thẩm định giá: Giá trị quyền sử dụng đất Dự án khu phức hợp Dịch vụ cao tầng tại khu vực sân vận động Chi Lăng, Hải Châu II, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng.
-Mục đích thẩm định giá: Làm cơ sở tham khảo cho mục đích thế chấp vay vốn ngân hàng góp vốn liên doanh.
-Cơ sở thẩm định giá: Giá thị trường
-Kết quả thẩm định giá: Trên cơ sở hồ sơ, tài liệu do Cty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh cung cấp; qua khảo sát thực tế hiện trạng của bất động sản, tham khảo đơn giá xây dựng, giá bán căn hộ chung cư trên thị trường. Sử dụng các phương pháp thẩm định giá trong tính toán; Cty cổ phần tư vấn-Dịch vụ về tài sản-Bất động sản DATC thông báo kết quả thẩm định giá như sau: Tổng giá trị quyền sử dụng đất của Dự án khu phức hợp Dịch vụ cao tầng tại khu vực sân vận động Chi Lăng, Hải Châu II, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng là: 10.414.687.000.
000 đồng.
-Kết quả thẩm định giá chỉ xác nhận khi người sử dụng đất các lô đất đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đất đai theo quy định của Nhà Nước và thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng toàn bộ dự án.
-Kết quả thẩm định giá được sử dụng làm cơ sở tham khảo cho mục đích thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp vốn liên doanh. Không sử dụng kết quả thẩm định giá cho mục đích khác.
Công ty DATC-Bộ Tài Chính là 1 tổ chức có chức năng và uy tín trong tư vấn thẩm định giá. Nội dung chứng thư thẩm định giá hoàn toàn phù hợp quy định tại Điều 112 Luật Đất đai về mục đích sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất, giá đất thị trường và mục đích thẩm định giá. VNCB căn cứ kết quả thẩm định giá này cho vay là đúng pháp luật.
Sau khi vụ án xảy ra, Phạm Công Danh bị bắt tạm giam. Theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà 
Nước, ngày 04-9-2014 Cty CP Thông tin thẩm định giá Miền Nam (SIVC) có chứng thư thẩm định giá cùng khu đất trên, với nội dung sau:
-Tài sản thẩm định giá: Quyền sử dụng đất
-Mục đích thẩm 
định giá: làm cơ sở xác định giá trị tài sản theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà Nước.
-Thời điểm định giá: tháng 9-2014 (sau khi vụ án xảy ra và tài sản đã bị kê biên theo lệnh kê biên số 06/C46 (P10) ngày 21-8-2014).
-Phương pháp thẩm định giá: phương pháp so sánh
-Kết quả thẩm định giá: 2.604.070.565.
200 đồng
-Kết quả thẩm định giá chỉ phục vụ cho mục đích duy nhất là làm cơ sở xác định giá trị quyền sử dụng đất theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, SIVC không chịu trách nhiệm khi khách hàng sử dụng kết quả thẩm định giá này cho bất kỳ mục đích nào khác.
-Mức giá nêu trên chỉ được xác nhận tại thời điểm định giá, với các chính sách quản lý của Nhà Nước hiện tại có liên quan. Trong trường hợp chính sách của Nhà nước thay đổi có thể làm cho các mức giá trên thay đổi (nghĩa là định giá theo chính sách quản lý đất đai của Nhà Nước, không theo giá thị trường)
-Những hạn chế của kết quả thẩm định giá:
       +Khách hàng yêu cầu thẩm định giá không phải là chủ sở hữu tài sản, không cung cấp giấy ủy quyền của chủ 
sở hữu đồng ý cho VNCB thẩm định giá với mục đích làm cơ sở xác định giá trị tài sản theo yêu cầu của NHNN.
       +Tại thời điểm thẩm định giá, trong khu vực tài sản thẩm định giá có những tài sản được đưa ra giao dịch trên thị trường nhưng không 
hoàn toàn tương đồng với tài sản thẩm định giá nên khó có sự lựa chọn tốt nhất để so sánh với tài sản thẩm định gốc.
Cty SIVC định giá theo phương pháp so sánh, nhưng xác nhận trong khu vực tài sản thẩm định giá không có tài sản tương đồng với tài sản thẩm định giá (dự án…) nên khó so sánh thì làm sao định giá được? Cty SIVC định giá theo yêu cầu của NHNN và chỉ thẩm định giá trị quyền sử dụng đất ở theo chính sách Nhà 
nước, không thẩm định giá trị QSD đất thuộc Dự án đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với Nhà Nước và đã thực hiện giải phóng mặt bằng trên toàn bộ dự án theo giá thị trường. Vì vậy, giá trị QSD đất do SIVC thẩm định không phù hợp Điều 112 Luật Đất đai, không thể hiện được giá thị trường của đất Dự án.
Căn cứ Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02-3-2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, cơ quan CSĐT-BCA đã có quyết định trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Tp. Đà Nẵng định giá đất liên quan vụ án xảy ra tại NH TMCP XDVN. Biên bản họp Hội đồng định giá tài sản ngày 14-5-2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Đà Nẵng có nội dung:
-Thống nhất các nội dung báo cáo trước đây của Hội đồng là do các thời điểm CQ CSĐT-BCA trưng cầu định giá phần lớn thuộc về quá khứ, Hội đồng không có đủ thông tin giá đất thị trường theo các thời điểm nêu trên nên không có cơ sở định giá theo giá đất thị trường.
-Thời điểm tháng 02/2014, tháng 9/2014 và tháng 3/2015: Nếu áp dụng Bảng giá đất và quy định về việc xác định giá đất tại Quyết định số 41/2013/QĐ-UBND ngày 20-12-2013 của UBND thành phố cho thấy giá đất không thay đổi so với Quyết định số 62/2012/QĐ-UBND nên giá đất của khu đất này không thay đổi so với năm 2013 là 22.900.000đ/m2. Giá trị khu đất là 1.260.896.900.000đồng (22.900.000đ/m2 x 55.061m2)
Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02-3-2005 của Chính phủ, về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, quy định:
-Điều 2: Nguyên tắc định giá tài sản
         1.Phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm.
         2.Trung thực, khách quan, công khai và kịp thời.
-Điều 15: Khảo sát giá
       Hội đồng định giá tài sản thực hiện khảo sát giá bằng các hình thức sau đây:
         1.Khảo sát giá thị trường theo giá bán buôn hoặc bán lẻ đối với tài sản cùng 
loại hoặc tương đương còn mới, có chất lượng đạt một trăm phần trăm.
-Điều 16: Phiên họp định giá tài sản.
 
4/-Đại diện cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu định giá tài sản, đại diện các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản cần định giá được tham dự phiên họp định giá tài sản và có thể phát biểu ý kiến về việc định giá, nhưng không được quyền biểu quyết về giá của tài sản.
Đối chiếu với các quy định nêu trên, tôi nhận thấy rằng “Biên bản họp Hội đồng Định giá tài sản” ngày 04-5-2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Đà Nẵng là không có giá trị pháp lý, vì những lý do sau đây:
-Biên bản này được đóng dấu MẬT, không có đại diện các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản tham dự phiên họp, vi phạm  quy định tại khoản 2 Điều 3 và 
khoản 4 Điều 16 Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02-32005.
-Biên bản này xác nhận không có cơ sở định giá đất theo giá thị trường, và áp dụng giá đất do UBND TP. Đà Nẵng ban hành năm 2013 là 22.900.000đ/m2 , tổng trị giá 1.260.896.900.000đồng. Trong khi đó, theo Quyết định số 7140/QĐ-UBND ngày 17-9-2010 UBND TP. Đà Nẵng đã quy định giá đất khu vực này là 25.300.000đ/m2, tổng trị giá phải nộp là 1.393.043.300.000đồng, vi phạm khỏan 1 Điều 2 Nghị định 26/2005/NĐ-CP và không phù hợp Quyết định số 7140/QĐ-UBND ngày 17-9-2010 của UBND TP. Đà Nẵng.
-Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02-3-2005 quy định nguyên tắc định giá tài sản là “phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm” (khoản 1 Điều 2), “khảo sát giá thị trường theo giá bán buôn hoặc bán lẻ đối với tài sản cùng 
loại hoặc tương đương còn mới, có chất lượng đạt một trăm phần trăm” (khoản 1 Điều 15). Quy định này cho phép tôi hình dung tài sản thuộc đối tượng áp dụng của nghị định này không phải là quyền sử dụng đất, hay chí ít cũng không phải là Đất của dự án trong vụ án này, vì QSD đất này không có bị xâm phạm, và cũng không thể có giá bán buôn, bán lẻ gì đối với QSD đất!
Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cho rằng chỉ có giá 1.260.896.900.000đ của “Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Đà Nẵng” là đúng quy định pháp luật; giá thẩm định 2.604.070.565.200đồng của SIVC là không đúng quy định pháp luật (Chủ tọa không nhắc gì đến thẩm định giá của DATC Bộ tài chính). Tuy nhiên, áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử cho phép bị cáo Phạm Công Danh được lựa chọn một trong 2 mức giá nêu trên. Bị cáo Danh trả lời không chấp nhận cả 2, đề nghị cho gia đình tìm đối tác để chuyển nhượng đúng theo giá thị trường! Từ các phân tích trên, chúng tôi nhận thấy ý kiến của bị cáo Danh là hoàn toàn chính xác! Nếu Chủ tọa đã nêu nguyên tắc có lợi cho bị cáo thì tại sao không chấp nhận giá thẩm định của DATC-Bộ Tài chính? Chúng tôi rất 
hoan nghênh Chủ tọa phiên tòa đã đồng ý tạo điều kiện cho bị cáo Danh được tiếp xúc với gia đình và đại diện của Tập đoàn Thiên Thanh để bàn giải pháp tìm đối tác mua với giá cao hơn, nhằm khắc phục thiệt hại. Tuy nhiên, với thời gian quá eo hẹp, lại trong hoàn cảnh vụ án đang xét xử, tài sản đang bị kê biên, đang chịu sức ép của công luận thì rõ ràng thiện ý của Chủ tọa phiên tòa không thể nào thực hiện được! Bị cáo Danh đã phải thốt lên: trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, lần đầu tiên nguyện vọng khắc phục hậu quả của bị cáo mới được Chủ tọa quan tâm, nhưng lại không thể thực hiện ngay trong một hai ngày! Phải chi bị cáo được tạo điều kiện từ giai đoạn điều tra thì tình thế chắc đã phải khác! Số phận thôi đành chịu vậy!
Tại phiên tòa, khi được luật sư hỏi đại điện Ngân hàng TMTNHHMTV Xây dựng Việt Nam (CB): Ngân hàng có bị thiệt hại như Cáo trạng nêu không? Ngân hàng có yêu cầu bồi thường thiệt không? Đại diện CB cũng đã trả lời: Tài sản thế chấp chưa được xử lý để thu hồi nợ thì không thể có căn cứ xác định được thiệt hại, nên CB không có yêu cầu bồi thường mà tùy thuộc quyết định của Tòa án. 
Khoản 1 Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. CB kế thừa toàn bộ quyền lợi, nghĩa vụ của VNCB, được Cáo trạng xác định bị thiệt hại 2.095.929.434.800đồng, đáng lý CB phải là Nguyên đơn dân sự trong vụ án chứ không phải Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan. Đại diện CB xác nhận chưa xác định được thiệt hại vì TSTC chưa xử lý, không có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại thì làm sao HĐXX xem xét?
Kết luận điều tra (trang 1840 và Cáo trạng(trang 85), đã xác định: “các cá nhân trong Hội đồng tín dụng Hội sở Ngân hàng Đại Tín gồm: Ông 
Hoàng Văn Toàn, nguyên Chủ tịch HĐQT; ông Trần Sơn Nam, nguyên Tổng giám đốc… Việc phê duyệt 02 khoản là căn cứ theo quy trình, quy chế cho vay, tài sản bảo đảm là 5.104m2 đất, thửa đất số 130, Tờ bản đồ số 3 tại lô đất số 03 khu phức hợp TM&DV cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng, P. Hải Châu II, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng đã được Cty DATC Bộ Tài chính định giá thời điểm tháng 12/2012 là 913,369 tỷ đồng (giá trị đủ bảo đảm cho khoản vay 650tỷ đồng – Cty SIVC định giá lại 178,818tỷ đồng); trong hồ sơ có tài sản đảm bảo, có phương án kinh doanh, có hợp đồng mua bán và được Chi nhánh thẩm định, cán bộ Hội sở tái thẩm định đồng ý cho vay. Với tài liệu chứng cứ hiện có không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với các cá nhân này!” Tôi nhận thấy kết luận này của CQCSĐT-BCA và VKSNDTC là hoàn toàn chính xác, thấu lý đạt tình!
Tuy nhiên, tiếp theo 02 
khoản vay nêu trên, 12 khoản vay sau cũng được thực hiện tương tự: cũng đều đúng quy trình, quy chế cho vay; tài sản đảm bảo cũng là các lô đất khu phức hợp TM & DV cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng đã được Cty DATC Bộ Tài chính định giá thời điểm tháng 12/2012 cao hơn nhiều so khoản vay, trong hồ sơ có phương án kinh doanh, có hợp đồng mua bán và được Chi nhánh thẩm định, cán bộ Hội sở tái thẩm định đồng ý cho vay. Vậy mà Phạm Công Danh, người thay thế Ông Hoàng Văn Toàn làm Chủ tịch HĐQT và các cán bộ dưới quyền đều bị  xử lý hình sự phải ra trước vành móng ngựa hôm nay! Khi nêu vấn đề này, tôi không có mong muốn gì hơn là Phạm Công Danh và 35 bị cáo hôm nay cũng được xem xét công bằng như ông Hoàng Văn Toàn và các bộ Hội đồng tín dụng Ngân hàng Đại Tín trước đây, căn cứ Điều 196 Bộ Luật TTHS về giới hạn của việc xét xử mà Chủ tọa thường nhắc nhở! Thế nhưng, tôi vô cùng ngạc nhiên khi trong phần luận tội tại phiên tòa hôm qua, vị đại diện VKSND TPHCM, thừa ủy quyền VKSNDTC giữ quyền công tố tại phiên tòa, lại phủ nhận kết luận trên đây của Kết luận điều tra của CQCSĐT-Bộ CA và Cáo trạng của VKSNDTC, đề nghị khởi tố bị can đối với  các thành viên của Hội đồng tín dụng Ngân hàng Đại Tín cũ, chỉ với lý do  kết quả định giá của Cty DATC-Bộ Tài Chính là định giá tài sản hình thành trong tương lai, VKSND TPHCM chọn kết quả định giá của SIVC! Việc định giá thì tôi đã phân tích ở phần trên, xin không lặp lại. Tôi rất băn khoăn trước kết luận mới này của đại diện VKSND TPHCM. Hóa ra việc có tội hay không có tội, số phận của con người chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn của cơ quan tiến hành tố tụng đối với kết quả định giá của một Công ty thẩm định giá nào đó, mà những người chủ tài sản không có quyền có ý kiến!? Thế còn giá trị thực theo thị trường của tài sản ở đâu? Chỉ có thể tổ chức đấu giá theo quy định của pháp luật. Thế nhưng khi kết luận về phần dân sự, đại diện VKS ND TPHCM lại đề nghị giải tỏa kê biên 10 QSD đất của các Cty thuộc Tập đoàn Thiên Thanh, giao cho CB phát mãi thu hồi nợ, số tiền nếu còn dư thì giao cho cơ quan Thi hành án tiếp tục khắc phục hậu quả vụ án!? Trớ trêu thay! Nếu phát mãi thu hồi nợ mà còn dư tiền so với số nợ được bảo đảm thì đáng lý ra Phạm Công Danh và 10 Công ty thuộc Tập đoàn Thiên Thanh không phạm tội, phải khôi phục quyền lợi và trả lại tiền còn thừa cho chủ tài sản thế chấp mới đúng luật và hợp lẽ công bằng.
Tóm lại, việc cho 12 Cty có đầy đủ tư cách pháp nhân độc lập vay theo đúng quy trình, quy chế cho vay, tài sản bảo đảm đã được Cty DATC Bộ tài chính định giá cao hơn nhiều so với khoản vay. Đến nay mặc dù các 
khoản vay đã quá hạn, nhưng do xảy ra vụ án các tài sản thế chấp bị bê biên, chưa xử lý phát mại thu hồi nợ nên chưa có đủ căn cứ quy kết bị cáo Danh vi phạm quy định cho vay gây thiệt hại cho VNCB với số tiền 2.095.929.434.800 đồng.
 
III/-MỘT SỐ HÀNH VI, SỰ VIỆC CÓ LIÊN QUAN:
1/-Đối với hành vi rút 3.
100 tỷ đồng ngày 21/8/2013 và 2.090 tỷ đồng ngày 26/8/2013 chứng từ không có chữ ký của chủ tài khoản. Rút 300 tỷ đồng không có hồ sơ vay liên quan đến nhóm Trần Ngọc Bích, gây thiệt hại cho VNCB 5.490 tỷ đồng.
 
       
A/-Đối với số tiền 3.100 tỷ đồng và 2.090 tỷ đồng:
+Theo Kết luận điều tra, Cáo trạng và sự xác nhận của Trần Ngọc Bích, Phạm Công Danh và VNCB:
       -Cùng trong một ngày 21/8/2013 số tiền 3.
100 tỷ được VNCB  chuyển từ TK Trần Ngọc Bích qua TK Phạm Công Danh, từ TK Phạm Công Danh chuyển vào TK Trấn Quý Thanh số tiền 3.160.707.301.260đ, từ TK Trần Quý Thanh chuyển trả VNCB để tất toán khoản vay 3.100 tỷ ngày 21-6-2013
       -Đối với số tiền 2.090tỷ diễn ra cùng ngày 26-8-2013 cũng tương tự như số tiền 3.100tỷ trên, cuối cùng là để tất toán khoản vay ngày 30/7/2013.
Theo bà Trần Ngọc Bích thì vào ngày 21-8-2013 và ngày 26-8-2013 bà Bích gửi vào VNCB số tiền 3.100tỷ và 2090 tỷ, thể hiện bằng 3 HĐ tiền gửi (Bà Bích đang giữ bản chính). Một năm sau khi CQĐT báo Bà Bích mới biết số tiền của Bà không còn trong TK tiền gửi, nên Bà đã sử dụng 3 HĐ tiền gửi này để khởi kiện VNCB tại TAND Q.3 để đòi 5.190 tỷ đồng. Đồng thời tại phiên tòa hình sự này, Bà Bích cũng lại yêu cầu VNCB hoàn trả số tiền 5.190 tỷ đồng lại tài khoản của Bà Bích, vì VNCB đã tự tiện chuyển qua TK Phạm Công Danh mà không được sự đồng ý của Bà Bích.
VNCB thì cho rằng cùng 1 số tiền 5.190tỷ trong cùng một ngày không thể vừa chuyển vào TK Phạm Công Danh, lại vừa gửi vào VNCB bằng 3 Hợp đồng tiền gửi. Việc chuyển tiền từ TK bà Bích vào TK Ông Danh, từ Ông Danh vào TK ông Thanh, từ TK Ông Thanh tất 
toán nợ cũ là có thật, việc này đã được các bên thỏa thuận và đã thực

Hình ảnh văn phòng bào chữa