Bản án về tranh chấp thừa kế tại việt nam

Thông tin bản án

Loại vụ việc: Tranh chấp di sản thừa kế và tuyên bố văn bản tặng cho tài sản vô hiệu.

Cấp xét xử: Phúc thẩm.

Tòa án giải quyết: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng Khuất Văn Đ.

Khái quát vụ việc

Khi còn sống, vợ chồng đã làm thủ tục chia đất cho 5 người con trai. Sau đó, phát hiện 1 người con được nhận đất đã hy sinh trước khi chia đất.

Người cha mất đi không để lại di chúc, mẹ tiếp tục quản lý phần đất được chia cho liệt sỹ. Người mẹ lập đơn xin chuyển vị trí lô đất và văn bản cho tài sản là thửa đất này cho một người con trai khác.

Thửa đất bị thu hồi, được nhà nước bồi thường bằng tiền và 01 suất đất tái định cư. Một người con gái khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản tặng cho tài sản vô hiệu, yêu cầu chia đều toàn bộ phần tiền bồi thường và suất đất tái định cư.

Tòa án sơ thẩm tuyên.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố hợp đồng tặng cho tài sản người mẹ lập vô hiệu, chia đều toàn bộ di sản thừa kế của người cha và người mẹ, cho vợ chồng người con trực tiếp sử dụng đất hưởng một phần trích áng công sức do quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. Giao cho ông Khuất Văn Đ nhận lô đất tái định cư và có nghĩa vụ thanh toán phần tiền chệnh lệch cho các bên.

Tòa án phúc thẩm tuyên.

Chấp nhận kháng cáo của bị đơn, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn. Cụ thể: Toàn bộ tài sản, di sản của người mẹ được công nhận cho bị đơn Khuất Văn Đ, di sản của người cha được chia đều cho các đồng thừa kế. Giao cho ông Khuất Văn Đ nhận lô đất tái định cư và có nghĩa vụ thanh toán phần tiền chệnh lệch cho các bên.

bản án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Luật sư thừa kế – Luật Hùng Bách: 0963.673.969 (Zalo)

Chi tiết bản án

Ngày 17 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai vụ án thụ lý số 530/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 11 năm 2023, về việc “Tranh chấp về di sản thừa kế; và tuyên bố văn bản tặng cho tài sản vô hiệu”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 639/2023/QĐ-PT ngày 12/12/2023, Quyết định hoãn phiên toà số 638/2023/QĐPT-HPT ngày 26/12/2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Khuất Thị L, sinh năm 1953;

Địa chỉ: Số M, ngõ N, ngách L, đường Tân Khai, phường Vĩnh Hưng, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Ông Khuất Văn Đ, sinh năm 1955;

Địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo uỷ quyền của ông Đ: Bà Vi Tú Anh, sinh năm 1998 . Trú tại 32 phố Đỗ Quang, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Đ: Luật sư Nguyễn Văn Luật – Công ty luật TNHH luật Hùng Bách- Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Khuất Văn N sinh năm 1938;

Địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Ông Nghĩa ủy quyền cho chị Khuất Thị Thu H,  sinh năm 1975 (là con gái, theo Giấy ủy quyền ngày 08/02/2023).

3.2. Bà Khuất Thị H, sinh năm 1943;

Địa chỉ: Số L, ngõ F, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.3. Ông Khuất Văn H, sinh năm 1951 (Đã chết năm 2021).

* Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông H:

Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1954 (Là vợ của ông H);

Anh Khuất Hồng G, sinh năm 1980 (Là con đẻ ông H);

Đều có địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.4. Ông Khuất Văn T (Đã chết 2011);

* Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T:

Bà Trần Thị T, sinh năm 1951 (Là vợ ông T);

Địa chỉ: Số D phố A, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Anh Khuất Văn H, sinh năm 1971 (Là con ông T);

– Anh Khuất Văn S, sinh năm 1972(Là con ông T);

Đều có địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Chị Khuất Thị Bích N, sinh năm 1981 (Là con ông T);

Địa chỉ: Số G, ngách K, phố Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

(Anh H, anh S và chị N Ủy quyền cho bà Toàn, theo giấy Ủy quyền ngày 06/02/2023);

Đều có địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.5. Bà Khuất Thị Q (Đã chết năm 1987);

Địa chỉ: Số R, phố P, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

* Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q:

– Ông Kiều Bình V (Là chồng bà Q – chết năm 2018);

– Anh Kiều Bình H, sinh năm 1957 (Là con bà Q);

Địa chỉ: Tổ dân phố P, Ái Mỗ, phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Chị Kiều Thị P, sinh năm 1962 (Là con bà Q).

Địa chỉ: Số Q, ngõ B, Thiều Xuân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Chị Kiều Thị Y, sinh năm 1965 (Là con bà Q);

Địa chỉ: Số N phố Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

– Anh Kiều Bình C, sinh năm 1968 (Là con bà Q);

– Chị Kiều Thị L, sinh năm 1971 (Là con bà Q);

– Chị Kiều Thị T, sinh năm 1973(Là con bà Q);

– Anh Kiều Bình T, sinh năm 1976(Là con bà Q);

Đều có địa chỉ: Số R, phố P, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

(Các đương sự: Anh H, chị P, chị Y, anh C, chị T, anh T đều Ủy quyền chi chị L, theo Giấy ủy quyền ngày 14/02/2023).

3.6. Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ, hy sinh năm 1967- Chưa có vợ con).

3.7. Bà Trần Thị Thanh H, sinh năm 1971 (Là vợ ông Đ);

Địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.8. Anh Khuất Tiến C, sinh năm 1993;

3.9. Anh Khuất Tiến Đ, sinh năm 1999;

3.10. Anh Khuất Tiến D, sinh năm 1999;

(Các anh D, Đ, C là con bà H, ông Đ; đều ủy quyền cho ông Đ).

Đều có địa chỉ: Số R phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.11. Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây; Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Đình Ngũ, chức vụ: Chủ tịch UBND thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội; ông Ngũ Ủy quyền cho ông Khuất Bá Trinh, chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm quĩ đất thị xã Sơn Tây, Tp Hà Nội, (Theo giấy Ủy quyền số 03/UQ-CT, ngày 16/02/2023). Địa chỉ: Số 01 Phó Đức Chính, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.12. Phòng Công chứng số 8 Thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Mạnh Hùng, chức vụ: Phó Trưởng phòng phụ trách phòng Công chứng số 8, thành phố Hà Nội.

Địa chỉ: Đường La Thành, phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

3.13. Công ty Cổ phần tập đoàn Xây dựng và Du lịch C. Do bà Nguyễn Thị Mạch, chức vụ: Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh, đại diện.

Địa chỉ: Số E, Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Người kháng cáo, Ông Khuất Văn Đ là bị đơn; Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây kháng nghị.

Nội dung vụ án chia thừa kế và hủy văn bản tặng cho

Theo Bản án dân sự sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Bà Khuất Thị L trình bày:

Bố mẹ đẻ bà là cụ Khuất Văn N và cụ Bùi Thị M. Các cụ sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ); Ông Khuất Văn Đ, Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H và Bà Khuất Thị L.

Cụ N, cụ M tạo lập được thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 (Nay thuộc thửa số 4, tờ bản đồ số 6), địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

Năm 1970, cụ N, cụ M làm văn bản chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa đất gồm: Ông Khuất Văn N được chia thừa số 323; Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) được chia thửa số X; Ông Khuất Văn H được chia thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ được chia thửa số 324; Ông Khuất Văn T được chia thửa số 325.

Việc chia đất làm 05 thửa trên được xác định bằng Biên bản chia đất và cắm mốc có kèm theo bản phác họa thửa đất phân giới số X, tờ bản đồ số M được UBND thị xã Sơn Tây và phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây xác nhận ngày 15/4/1970. Trong văn bản này cũng xác định rõ là để lại một diện tích đất để làm lối đi chung cho các thửa đất phía sau.

Việc chia đất trên cho 5 người con trai và diện tích đất dùng làm lối đi chung có cắm mốc giới cụ thể nhưng diện tích đất của từng thửa và diện tích đất để lại làm lối đi chung không đo nên không ghi trong văn bản chia đất.

Tại thời điểm năm 1970, khi cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 người con trai thì Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) đã mất (Ông Khuất Văn H hy sinh ngày 27/7/1967 được Nhà nước công nhận và ghi trong “Bằng Tổ quốc nghi công”. Theo qui định của pháp luật thì thửa đất số X, tờ bản đồ số M trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ mà bố mẹ tôi đã chia cho ông H nhưng ông H chết từ năm 1967 (Ông H không có vợ con) nên nhà đất này thuộc quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất hợp pháp của bố mẹ tôi là cụ N, cụ M.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Mẹ tôi cùng anh chị em trong gia đình thống nhất cho mẹ tôi tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất đã chia cho ông H để các anh chị em trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ và thờ cúng cụ N và ông H mà chưa phân chia di sản thừa kế.

Ngày 19/6/1996, cụ M làm văn bản cho tài sản nhà đất (Thửa X) cho Ông Khuất Văn Đ là con trai út, có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây (Nay là phòng Công chứng số 8 Thành phố Hà Nội). Việc cho tài sản này là không hợp pháp, vô hiệu vì làm thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng về tài sản của anh chị em chúng tôi.

Năm 2002, cụ Bùi Thị M chết không để lại di chúc. Thửa đất số X, tờ bản đồ số M trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ. Vợ chồng ông Đ, bà H sử dụng đến khoảng năm 2008 thì phá bỏ để xây dựng 01 nhà mới 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây có Quyết định số 36/QĐ-UBND về việc thu hồi 74,4 m2 đất (Thửa X, tờ bản đồ số M) trong quyết định ghi hộ Ông Khuất Văn Đ để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ. Đồng thời UBND thị xã Sơn Tây lập phương án chi tiết việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Kèm theo Quyết định số 655/QĐ-UBND ngày 17/7/2009 của UBND thị xã Sơn Tây thì Ông Khuất Văn Đ được bồi thường về đất là 74,4 m2 với đơn giá 10.000.000 đồng/01 mẻ, tương ứng 74,4 m2 x 10.000.000 đồng/01 m2 = 744.000.000 đồng.

Về đất tái định cư sau khi thu hồi thửa X: UBND thị xã Sơn Tây đã giao ông Đ Lô đất số T- Khu M- Khu nhà ở Thuần Nghệ có diện tích 67,5 m2 thuộc phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây.

Ngày 11/9/2009, UBND ra Quyết định số 307/QĐ-UBND về việc thu hồi 47,9 m2 đất làm lối đi chung (Theo văn bản chia đất năm 1970), số tiền bồi thường là 482.000.000 đồng.

Việc UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 và tái định cư Lô đất số T, diện tích 67,5 m2 đứng tên Ông Khuất Văn Đ là vì UBND thị xã Sơn Tây dựa vào văn bản tặng cho tài sản của cụ M cho ông Đ được lập ngày 16/9/1996. Còn lối đi chung 47.9 m2 là dựa vào văn bản phân chia tài sản của cụ N, cụ M lập năm 1970.

Khi UBND tiến hành thu hồi đất (Thửa X) và lối đi chung, anh chị em chúng tôi đều được biết. Tôi có khiếu nại, xẩy ra việc tranh chấp nên hiện chưa ai được nhận tiền đền bù và chưa nhận đất tái định cư.

Nay các di sản của cụ N, cụ M chết để lại là diện tích đất tái định cư 67,5 m2 thuộc Lô đất số T – A2- Khu nhà ở Thuần Nghệ, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây kèm theo số tiền bồi thường đất 744.000.000đ và tiền bồi thường đất khi thu hồi 47,9 m2 đất lối đi chung là 482.000.000 đồng.

Về Văn bản cho tài sản ngày 19/6/1996 của cụ M cho ông Đ là trái quy định của pháp luật. Bởi tại thời điểm lập văn bản cho tài sản, cụ Bùi Thị M và anh, chị, em chúng tôi chưa khai nhận di sản thừa kế, chưa chia di sản. Thời điểm đó mới chỉ thống nhất để cụ Bùi Thị M  tạm thời quản lý, thờ cúng cụ Khuất Văn N và Liệt sỹ Khuất Văn H. Nay tôi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

– Yêu cầu Tòa án tuyên bố Văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 do phòng Công chứng số 2, tỉnh Hà Tây xác nhận là vô hiệu do trái quy định của pháp luật. Không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

– Yêu cầu Tòa án phân chia di sản của cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M chết để lại gồm:

+ Di sản là toàn bộ thừa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4 m2, địa chỉ số 29, phố Phùng Khắc Khoan, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội nay đã bị UBND thị xã Sơn Tây thu hồi và được tái định cư Lô đất số T- Khu M- Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2, kèm theo khoản tiền bồi thường đất là 744.000.000đ. Đối với thửa đất này và khoản tiền bồi thường liên quan đến thửa đất là 744.000.000₫ tôi đề nghị phân chia đều bằng giá trị cho 7 đồng thừa kế. Giao thửa đất này cho ông N là con trưởng và ông N có nghĩa vụ thanh toán cho các thừa kế giá trị bằng tiền.

+ Di sản là diện tích đất 47,9 m2 làm lối đi chung của các anh, chị, em chúng tôi. Nay di sản đã bị thu hồi nên được xác định là quyền được hưởng số tiền bồi thường là 482.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi hai triệu đồng). Đề nghị Tòa án chia đều cho 7 thừa kế theo qui định.

+ Đồng thời Tòa án phân chia nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai trệu đồng) tương ứng với kỷ phần được nhận cho những người được phân chia di sản thừa kế theo qui định. Đồng thời trích một phần công sức cho người có công duy trì di sản thừa kế.

Các tài sản gồm nhà cấp 4 có trên đất của ông H được bố mẹ tôi làm từ lâu không còn giá trị sử dụng và vợ chồng ông Đ đã phá bỏ và làm nhà khác trên đất, đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất tài sản của bố mẹ tôi trên đất không còn gì nên tôi không yêu Tòa án xem xét giải quyết. Về khoản tiền lợi tức vợ chồng ông Đ, bà H thu được từ việc tận dụng lối đi chung làm nhà cấp 4 cho thuê lấy tiền hàng tháng chúng tôi tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Ông Khuất Văn Đ và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; và bà Trần Thị Thanh H (là vợ ông Đ) thống nhất trình bày:

Bố mẹ tôi là cụ Khuất Văn N và cụ Bùi Thị M có mảnh đất tự tạo lập từ khoảng năm 1932, diện tích đất 1539 m2. Năm 1970, bố mẹ tôi có làm văn bản chia thành 5 thửa đất cho 5 người con trai. Theo bản phác họa thửa đất phân giới số X, tờ bản đồ số 07 được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây phê duyệt ngày 15/4/1970, cụ thể: Lô số 322 đứng tên Ông Khuất Văn H, lô số 323 đứng tên Ông Khuất Văn N, lô số X đứng tên Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), lô số 324 đứng tên Ông Khuất Văn Đ và lô số 325 đứng tên Ông Khuất Văn T. Cũng tại văn bản này bố mẹ tôi có để lại một lối đi chung cho các thửa đất bên trong. Tuy nhiên, về diện tích đất của từng thửa và diện tích đất lối đi chung không ghi trong văn bản chia đất.

Anh tôi Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) đi bộ đội chống Mỹ cứu nước năm 1964. Trong quá trình anh tôi đi bộ đội không có tin tức về cho gia đình. Ngày 16/12/1976 gia đình tôi nhận được Giấy báo tử của ông H đã hy sinh năm 1967. Thửa đất số X đã chia cho ông H trên đất có 01 nhà cấp 4 được mẹ tôi là cụ Bùi Thị M trực tiếp quản lý, sử dụng cả nhà và đất.

Năm 1972, bố tôi chết không để lại di chúc. Thửa đất 296 và nhà trên đất vẫn do mẹ tôi ở và quản lý.

Vì tuổi già sức yếu nên mẹ tôi đã làm giấy cho nhà đất của liệt sỹ H cho tôi, văn bản cho tài sản có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây cũ (Nay là phòng Công chứng số 8 thành phố Hà Nội). Kể từ đó đến nay tôi vẫn làm mọi thủ tục và nghĩa vụ với mảnh đất này.

Nay thửa đất số X, diện tích 74,4 m2 và lối đi chung 47,9 m2 tại Số L phố K, phường Quang Trung của tôi thuộc diện bị giải tỏa, thu hồi để làm đường cho dự án Khu nhà ở Thuần Nghệ, Quang Trung.

Ngày 7/01/2009, UBND phường Quang Trung đã họp với sự có mặt của Luật sư, Công chứng viên, Địa chính phường và toàn bộ gia đình tôi để giải quyết vụ việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư.

Thời điểm báo tử liệt sỹ H, cụ M được hưởng thừa kế của người đã chết. Việc cụ Bùi Thị M làm giấy sang tên thửa đất số X cho tôi là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật. Trước khi ra quyết định mẹ tôi đã tham khảo hai bên nội ngoại và đã giao cho tôi là con út trong nhà, người có trách nhiệm gìn giữ căn nhà để hương khói cho anh.

Còn lối đi chung mà bà L yêu cầu Tòa án giải quyết là lối đi riêng của thửa đất số X của Ông Khuất Văn H, không phải lối đi chung của 05 thửa đất như bà L trình bày. Hiện phần lối đi chung này vợ chồng tôi cho người khác thuê (không lập hợp đồng) để bán hàng ăn. Người thuê ông không nhớ họ tên vì mỗi ngày có người thuê khác nhau, mỗi tháng thu về khoảng 4-5 triệu đồng vợ chồng ông sử dụng.

Theo tôi Công ty Bình Minh và UBND thị xã Sơn Tây không liên đến vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa bà L và gia đình tôi. Việc Tòa án đưa UBND thị xã Sơn Tây và Công ty Bình Minh vào tham gia tố tụng trong vụ án này là không phù hợp mà để xem xét giải quyết ở vụ án khác.

Về văn bản cho tài sản lập ngày 19/6/1996 có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây, văn bản do tôi viết. Sau khi viết xong tôi có đọc cho mẹ tôi nghe có sự chứng kiến của ông M là cán bộ địa chính phường, ông Th là Tổ trưởng dân phố và Công chứng viên Hà Đăng T. Theo tôi việc cụ M cho thửa đất 296 cho tôi là hoàn toàn hợp pháp.

Nay Bà Khuất Thị L khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ N, cụ M để lại theo đơn khởi kiện, tôi đề nghị Tòa án xem xét giải quyết di sản thừa kế tại Số L phố K, phường Quang Trung (Bao gồm: Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 và lối đi chung, diện tích 47,9 m2) theo qui định của pháp luật. Tôi không đồng ý Tòa án giải quyết Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2; và số tiền bồi thường 482.000.000đ khi Nhà nước thu hồi diện tích đất lối đi chung 47,9 m2.

Về việc thờ cúng Liệt sỹ Khuất Văn H, hiện do tôi thờ cúng theo sự thống nhất của gia đình.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Khuất Thị H trình bày:

Tôi là con đẻ của cụ N, cụ M. Bố mẹ tôi sinh được 8 người con và tôi là con thứ tư gồm: Khuất Thị Q, Khuất Văn N, Khuất Văn H, Khuất Thị H, Khuất Văn T, Khuất Văn H, Khuất Thị L và Khuất Văn Đ. Theo tôi nghe được thông tin trước khi cụ M chết có để lại tài sản phần tài sản của anh H (Liệt sĩ) cho ông Đ được sở hữu có chứng nhận của phòng công chứng. Còn cụ thể như thế nào tôi không biết vì mẹ tôi không nói chuyện gì. Bố tôi chết năm 1972 không để lại di chúc. Mẹ tôi chết năm 2002 cũng không để lại di chúc.

Sau khi mẹ tôi cho tài sản nhà và thửa đất số X (Phần tài sản đã chia cho anh H – Liệt sỹ) ở Số L phố K cho anh Đ, tôi thấy như thế là hợp lý nên không có ý kiến gì. Tôi không có kiện cáo gì. Phần thừa kế của tôi được chia liên quan đến thửa đất số X tôi tự nguyện không nhận và nhường lại kỷ phần này cho anh Đ. Còn phần tài sản là diện tích đất dùng làm lối đi chung của bố mẹ tôi chết để lại, theo tôi Tòa án chia cho các con mỗi người một ít vì đó là hương hoa của bố mẹ để lại, phần di sản này tôi xin nhận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Khuất Văn N ủy quyền chị Khuất Thị Thu H (Là con ông N) trình bày:

Bố mẹ đẻ tôi là cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M. Bố mẹ tôi sinh được 8 người con gồm: Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), Ông Khuất Văn Đ, Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H và Bà Khuất Thị L .

Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 (Nay thuộc thừa số 4, tờ bản đồ số 6), địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, TP. Hà Nội. Năm 1970 các cụ làm văn bản chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa đất gồm: Ông Khuất Văn N được chia thửa số 323; Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Việc chia đất 05 thửa trên được xác định bằng biên bản chia đất và cắm mốc giới có kèm theo bản phác họa được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây xác nhận ngày 15/4/1970. Trong văn bản này cũng xác định rõ để lại một phần diện tích đất làm lối đi chung cho các thửa đất phía sau. Tuy nhiên, về diện tích của từng thửa và đất dùng làm lối đi chung lại không ghi trong văn bản chia đất.

Thời điểm năm 1970, cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 con trai thì Ông Khuất Văn H đã mất (Ông Khuất Văn H  hy sinh ngày 27/7/1967 được Nhà nước công nhận ghi trong “Bằng Tổ quốc nghi công”). Theo qui định của pháp luật thì thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 trên đất có 01 nhà cấp 4 mà bố mẹ tôi đã chia cho ông H nhưng ông H lại chết từ năm 1967 (Ông H không có vợ con) nên thửa đất này vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp và là tài sản chung của bố mẹ tôi là cụ N, cụ M.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Mẹ tôi cùng anh chị em trong gia đình thống nhất cho mẹ tôi tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất này để các anh chị em trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ, thờ cúng cụ N và ông H chưa phân chia di sản thừa kế.

Ngày 19/6/1996, mẹ tôi làm văn bản cho tài sản nhà đất trên cho Ông Khuất Văn Đ, có xác nhận của phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây cũ là không hợp pháp vì làm thiệt hại đến quyền lợi về tài sản của anh chị em chúng tôi. Vì thế ngày 20/6/1996 tôi, ông T, bà L có làm đơn đề nghị gửi UBND thị xã Sơn Tây, phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây, Thanh tra Nhà nước thị xã Sơn Tây yêu cầu đình chỉ việc sang tên nhà đất của Liệt sỹ Khuất Văn H Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây cho Ông Khuất Văn Đ. Đơn có xác nhận của UBND phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây.

Năm 2002, mẹ tôi chết không để lại di chúc. Thửa đất số X trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ, vợ chồng ông Đ, bà H sử dụng đến khoảng năm 2008 vợ chồng ông Đ phá bỏ nhà cũ trên đất để xây dựng 01 nhà 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất ở là 74,4 m2, địa chỉ Số L phố K, phường Quang Trung và thu hồi diện tích đất làm lối đi chung là 47,9 m2 (Thời điểm này vợ chồng ông Đ, bà H đang sử dụng) để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở Thuần Nghệ. Đồng thời UBND thị xã Sơn Tây lập phương án chi tiết việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Lô đất số T, Khu M thuộc khu nhà ở Thuần Nghệ diện tích 67,5 m2.

Riêng số tiền được bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng và 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất (Thửa X) là di sản thừa kế của cụ N, cụ M chết để lại nên đề nghị chia đều cho các thừa kế theo pháp luật. Đồng thời, đề nghị Tòa án: Tuyên bố Văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 của mẹ tôi cho ông Đ là vô hiệu vì trái quy định của pháp luật gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của tôi. Đề nghị Tòa án phân chia di sản thửa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4 m2, địa chỉ Số 29, phố Phùng Khắc Khoan, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội đã bị UBND thị xã Sơn Tây có quyết định thu hồi và được tái định cư: Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 phân chia cho 7 đồng thừa kế bằng giá trị.Theo đó đề nghị Tòa án phân chia nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai trệu đồng) trả Nhà nước tương ứng với kỷ phần được nhận cho những người được phân chia di sản thừa kế và trích một phần công sức cho người có công sức duy trì di sản thừa kế theo qui định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của Ông Khuất Văn T, đồng thời là người được ủy quyền) trình bày:

Tôi là vợ của Ông Khuất Văn T. Cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M là bố mẹ chồng tôi, các cụ sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N, ông Khuất Văn T (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H, Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ.

Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2, địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, Hà Nội. Năm 1970, các cụ làm văn bản phân chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa gồm: Ông Khuất Văn N thửa số 323; Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ) thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Việc chia đất trên có biên bản và cắm mốc giới được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây nhận thực ngày 15/4/1970. Trong sơ đồ phác họa có đất làm lối đi chung cho các thửa đất bên trong nhưng văn bản phân chia đất cũng như lối đi chung không ghi diện tích của từng thửa và diện tích đất dùng làm lối đi chung.

Thời kỳ cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 con trai thì Ông Khuất Văn H đã hy sinh. Vì thế thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp và là tài sản chung của vợ chồng cụ N, cụ M.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Mẹ tôi cùng anh chị em trong gia đình thỏa thuận cho mẹ tôi tiếp tục sử dụng thửa đất này để các con trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ, thờ cúng cụ N và ông H chưa phân chia.

Năm 1996, mẹ tôi làm văn bản cho nhà đất thửa X cho Ông Khuất Văn Đ là không hợp pháp làm thiệt hại đến quyền lợi tài sản của các anh chị em trong gia đình. Ngày 20/6/1996, ông N cùng ông T, bà L làm đơn đề nghị gửi UBND thị xã Sơn Tây, phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây, Thanh tra Nhà nước thị xã Sơn Tây đề nghị đình chỉ việc sang tên nhà đất của Liệt sỹ Khuất Văn H tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây cho Ông Khuất Văn Đ. Đơn này có xác nhận của UBND phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây.

Năm 2002, cụ M chết không để lại di chúc. Thửa đất số X trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ, vợ chồng ông Đ, bà H ở sử dụng đến khoảng năm 2008 vợ chồng ông Đ phá bỏ nhà cấp 4 để xây dựng 01 nhà 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất ở là 74,4 m2; và thu hồi đất làm lối đi chung, diện tích đo là 47,9 m2 ở Số L phố K (Thời điểm này vợ chồng ông Đ, bà H đang sử dụng) để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở Thuần Nghệ. UBND thị xã Sơn Tây lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho Lô đất số T, Khu M thuộc khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 tại khu nhà ở Thuần Nghệ, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây. Số tiền được bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng, cộng với 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất đều là di thừa kế của cụ N, cụ M để lại.

Nay tôi đề nghị Tòa án: Tuyên bố Văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 của mẹ tôi cho ông Đ là vô hiệu vì trái quy định của pháp luật và không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Đề nghị Tòa án phân chia di sản của cụ N, cụ M chết để lại: Thửa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4 m2, địa chỉ Số 29, phố Phùng Khắc Khoan, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, đã bị UBND thị xã Sơn Tây có quyết định thu hồi và được tái định cư: Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2 phân chia cho 7 đồng thừa kế (Thuộc hàng thừa kế thứ nhất là các con đẻ của cụ N, cụ M). Đề nghị Tòa án phân chia nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất số tiền 402.000.000 đồng (Bốn trăm linh hai trệu đồng) trả Nhà nước tương ứng với kỷ phần được nhận cho những người được phân chia di sản thừa kế. Đồng thời chia khoản tiền bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng và số tiền 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất cho các thừa kế. Trích một phần di sản thanh toán cho người có công sức duy trì di sản theo pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L, anh Khuất Hồng G (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của Ông Khuất Văn H) trình bày:

Tôi là vợ của Ông Khuất Văn H. Cụ Khuất Văn N và cụ Bùi Thị M là bố mẹ chồng tôi, các cụ sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Đã chết); Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ); Bà Khuất Thị Q (Đã chết); Bà Khuất Thị H; Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ.

Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 ở Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, Hà Nội. Năm 1970, các cụ N, cụ M làm văn bản phân chia thửa đất trên cho 05 người con trai, mỗi người 01 thửa gồm: Ông Khuất Văn N thửa số 323; Ông Khuất Văn H thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Đồng thời có để lại một lối đi chung cho các thửa bên trong. Văn bản chia đất được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây nhận thực ngày 15/4/1970. Tuy nhiên, diện tích đất của từng thửa và diện tích đất dùng làm lối đi chung không có mà chỉ có cắm mốc giới của từng thửa. Thời kỳ cụ N, cụ M làm văn bản chia đất cho 5 con trai thì Ông Khuất Văn H đã hy sinh nên thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 vợ chồng cụ N, cụ M vẫn quản lý, sử dụng.

Năm 1972, cụ N mất không để lại di chúc. Cụ M tiếp tục ở, sử dụng nhà đất này để các con trong gia đình đi lại phụng dưỡng mẹ, thờ cúng cụ N và ông H, chưa phân chia.

Năm 1996, cụ M làm văn bản cho thửa đất 296 cho Ông Khuất Văn Đ là con út, một số người trong gia đình không đồng ý. Năm 2002, cụ M chết không để lại di chúc. Thửa đất số X trên đất có 01 nhà cấp 4 cũ. Vợ chồng ông Đ, bà H ở sử dụng đến khoảng năm 2008 vợ chồng ông Đ phá bỏ nhà cấp 4 để xây dựng 01 nhà 3,5 tầng và ở cho đến nay.

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây thu hồi thửa số X, tờ bản đồ số M, diện tích đất ở là 74,4 m2 và thu hồi đất làm lối đi chung, diện tích đo là 47,9 m2 ở Số L phố K (Thời điểm này vợ chồng ông Đ, bà H vẫn đang sử dụng) để giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở Thuần Nghệ. UBND thị xã Sơn Tây lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho Lô đất số T, Khu M thuộc khu nhà ở Thuần Nghệ diện tích 67,5m2; còn đất lối đi chung bồi thường bằng tiền là 482.000.000 đồng và 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất (Thửa X) do UBND thị xã Sơn Tây đền bù khi thu hồi đất.

Nay bà L kiện ông Đ chia thừa kế thửa đất số X (Trước kia cụ M, cụ N chia cho ông H) và diện tích đất làm lối đi chung. Phần tài sản ông H được chia trong trong di sản của cụ M, cụ N chết để lại bà đề nghị chia đều cho 7 thừa kế, kỷ phần của ông H được chia bà cùng con trai nhận theo qui định của pháp luật thừa kế và đồng ý trích một phần di sản để thanh toán cho người có công sức duy trì di sản theo pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị L (Là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của Bà Khuất Thị Q, đồng thời là người được ủy quyền) trình bày:

Tôi là con của Bà Khuất Thị Q (Bà Q là con gái cụ N, cụ M). Bà Q chết năm 1987, bố tôi là ông Khuất Bình V chết năm 2018. Bố mẹ tôi chết đều không để lại di chúc.

Cụ Khuất Văn N, cụ Bùi Thị M sinh được 8 người con là Ông Khuất Văn N; Ông Khuất Văn T (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Đã chết), Ông Khuất Văn H (Liệt sỹ), Bà Khuất Thị Q (Đã chết), Bà Khuất Thị H, Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ. Cụ N, cụ M có thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích khoảng 1.539 m2 ở Số L phố K, phường Quang Trung, TX Sơn Tây, Hà Nội.

Năm 1970 cụ N, cụ M làm văn bản phân chia thửa đất trên cho 05 người con trai (Không chia cho con gái) mỗi người 01 thửa: Ông Khuất Văn N thửa số 323; Ông Khuất Văn H thửa số X; Ông Khuất Văn H thửa số 322; Ông Khuất Văn Đ thửa số 324 và Ông Khuất Văn T thửa số 325. Trong văn bản các cụ có để lại một lối đi chung cho các thửa bên trong. Theo tôi biết văn bản chia đất được phòng Quản lý nhà đất thị xã Sơn Tây xác nhận ngày 15/4/1970. Thửa đất các cụ cho ông H nhưng ông H hy sinh từ năm 1967 nên Bà Khuất Thị L khởi kiện đến Tòa án chia di sản thừa kế của cụ N, cụ M chết để lại gồm: Thửa đất số X, từ bản đồ số 07, diện tích 74,4m2, địa chỉ số 29, phố Phùng Khắc Khoan, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội(Trước kia chia cho ông H). Khoảng năm 2009 UBND thị xã Sơn Tây thu hồi toàn bộ cùng lối đi chung để làm dự án Khu nhà ở Thuần Nghệ. UBND thị xã Sơn Tây đã cấp đất tái định cư Lô đất số T, Khu M, Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5m; và số tiền được bồi thường diện tích đất làm lối đi chung là 482.000.000 đồng và 744.000.000đ tiền bồi thường đất, đề nghị Tòa án chia đều cho 7 thừa kế theo qui định. Tôi nhất trí với đơn khởi kiện của bà L đối với Ông Khuất Văn Đ. Phần thừa kế được chia theo kỷ phần của mẹ chúng tôi (Bà Q) được hưởng theo qui định của pháp luật, chúng tôi xin nhận kỷ phần bằng giá trị.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Phòng Công chứng số 8 trình bày:

Căn cứ vào hồ sơ lưu trữ tại phòng Công chứng số 8 thành phố Hà Nội. Nhà và đất diện tích khoảng 60 m2, tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, Hà Nội do cụ Bùi Thị M xác nhận là người thừa kế hợp pháp duy nhất (Do con trai là Khuất Văn H hy sinh năm 1967 nhưng tới năm 1977 Nhà nước mới báo tử). Tại thời điểm ngày 19/6/1996 cụ Bùi Thị M đã viết đơn xin công chứng việc cho con tài sản (Nhà và đất) cho Ông Khuất Văn Đ được toàn quyền sở hữu, sử dụng nhà và đất theo pháp luật. Văn bản được Công chứng viên phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây (Nay là phòng Công chứng số 8 Thành phố Hà Nội) xác nhận ngày 19/6/1996.

Ngày 19/6/1996, cụ Bùi Thị M đã nhờ con trai là Ông Khuất Văn Đ viết hộ văn bản cho tài sản. Chứng kiến việc này cụ M có mời ông Chu Hoàng M là cán bộ địa chính phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây và ông Từ Nhân Th là Tổ Trưởng dân phố làm chứng. Phòng công chứng số 8 Thành phố Hà Nội cung cấp một số văn bản, tài liệu kèm theo và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo qui định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây trình bày:

Thực hiện Quyết định số 1042/QĐ-UBND, ngày 24/4/2008 của UBND tỉnh Hà Tây (Nay là UBND thành phố Hà Nội) về việc thu hồi 61.943,1 m2 đất thuộc địa giới hành chính phường Quang Trung, phường Lê Lợi, thành phố Sơn Tây (Nay là thị xã Sơn Tây) giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh thực hiện dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ. Ngày 30/8/2013, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội có Quyết định số 5321/QĐ-UBND về việc điều chỉnh nội dung tại Điều 1 Quyết định số 1042/QĐ-UBND, ngày 24/4/2008 của UBND tỉnh Hà Tây.

Thửa đất số X, tờ bản đồ số M, diện tích 74,4 m2 đất địa chỉ: Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội chủ sử dụng đất là Ông Khuất Văn Đ (Theo văn bản cho tài sản được lập ngày 19/6/1996 do phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây xác nhận).

Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây ban hành Quyết định số 36/QĐ- UBND về việc thu hồi 74,4 m2 đất ở của hộ Ông Khuất Văn Đ tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội để Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ, thị xã Sơn Tây.

Ngày 18/02/2009, Ông Khuất Văn Đ tự kê khai diện tích đất đai, tài sản gắn liền với đất thu hồi và biên bản làm việc ngày 07/7/2009 của Tổ công tác.Việc tiến hành kiểm đếm khối lượng đất đai, tài sản gắn liền với đất thu hồi của hộ Ông Khuất Văn Đ. Ông Đ đã ký xác nhận vào biên bản kiểm đếm. Ban bồi thường GPMB lập phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. UBND thị xã Sơn Tây đã ban hành 02 Quyết định (Kèm theo phương án chi tiết hộ Ông Khuất Văn Đ) cụ thể:

– Quyết định số 655/QĐ-UBND, ngày 17/7/2009 số tiền đến bù là 2.006.010.560 đồng.

– Quyết định số 1261/QĐ-UBND, ngày 25/11/2009 số tiền tăng thêm 900.000 đồng.

Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ là 2.006.910.560 đồng (Trong đó có 744.000.000 đồng tiền bồi thường đất).

Đối với diện tích đất ngõ đi chung, theo trích đo bản đồ hiện trạng khu đất thu hồi phục vụ công tác GPMB thì diện tích đất ngõ đi chung đo vẽ diện tích là 47,9 m2. UBND thị xã Sơn Tây đã phê duyệt phương án bồi thường đối với diện tích ngõ đi chung số tiền là 482.000.000 đồng. Số tiền này do các hộ chưa thống nhất nên chưa chi trả được.

Về giao đất tái định cư: Ngày 18/3/2014, UBND thị xã Sơn Tây ban hành Quyết định số 223/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bố trí tái định cư kèm theo phương án số 2 đối với Ông Khuất Văn Đ và bà Trần Thị Thanh H (Vợ ông Đ). Theo đó ông Đ được bố trí Lô đất số T-Khu M – Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5 m2. Số tiền sử dụng đất phải nộp là 402.000.000 đồng.

Ban bồi thường GPMB thị xã Sơn Tây phối hợp với UBND phường Quang Trung và Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh nhiều lần tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB và đất tái định cư cho Ông Khuất Văn Đ nhưng ông Đ không nhận tiền và không nhận đất tái định cư. Hiện toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ vẫn do Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh đang tạm giữ.

Từ năm 2009 đến nay UBND thị xã Sơn Tây đã phối hợp với UBND phường Quang Trung và các ban ngành, đoàn thể tổ chức vận động, thuyết phục Ông Khuất Văn Đ nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên ông Đ không hợp tác.

Trường hợp Tòa án có Bản án/Quyết định giải quyết “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa Bà Khuất Thị L với Ông Khuất Văn Đ cùng các đương sự khác liên quan đến việc thu hồi đất ở. Việc xác nhận một phần hoặc toàn bộ Lô đất số T-Khu M- Khu nhà ở Thuần Nghệ, diện tích 67,5m2 và lối đi chung là di sản thừa kế phải phân chia thì UBND thị xã Sơn Tây yêu cầu Công ty Cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh chuyển toàn bộ kinh phí bồi thường, hỗ trợ GPMB vào tài khoản của Trung tâm phát triển quĩ đất thị xã Sơn Tây để thực hiện việc chi trả theo qui định; và đến thời điểm những người được hưởng di sản thừa kế nộp tiền sử dụng đất 402.000.000₫ thì số tiền sử dụng đất không bị thay đổi, lý do vì UBND thị xã Sơn Tây đã được phê duyệt phương án bố trí tái định cư tại Quyết định số 223/QĐ-UBND, ngày 18/3/2014 và số tiền 402.000.000 đồng tiền sử dụng đất không nằm trong trường hợp chậm nộp với lý do Chi cục Thuế thị xã Sơn Tây chưa ra Thông báo nộp tiền sử dụng đất cho Ông Khuất Văn Đ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh do bà Nguyễn Thị M trình bày:

Ngày 24/4/2008 của UBND tỉnh Hà Tây (Nay là UBND thành phố Hà Nội) ban hành Quyết định số 1042/QĐ-UBND về việc thu hồi 61.943,1 m2 đất thuộc địa giới hành chính phường Quang Trung, phường Lê Lợi, thành phố Sơn Tây(Nay là thị xã Sơn Tây); giao cho Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh thực hiện dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ. Tại Điều 1 Quyết định ghi: “…Căn cứ Điều 1 Quyết định này UBND thị xã Sơn Tây ban hành quyết định thu hồi đất và GCNQSD đất của các hộ gia đình và cá nhân (Nếu có); chỉ đạo thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ GPMB theo qui định”. Ngày 16/01/2009, UBND thị xã Sơn Tây ban hành Quyết định số 36/QĐ-UBND về việc thu hồi 74,4 m2 đất ở của hộ Ông Khuất Văn Đ tại Số L phố K, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội để Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch Bình Minh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở Thuần Nghệ, thị xã Sơn Tây.

UBND thị xã Sơn Tây chỉ đạo giao cho Ban bồi thường GPMB lập phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất ở hộ gia đình Ông Khuất Văn Đ. UBND thị xã Sơn Tây ban hành 02 Quyết định.

– Quyết định số 655/QĐ-UBND, ngày 17/7/2009 số tiền đến bù là 2.006.010.560 đồng.

– Quyết định số 1261/QĐ-UBND, ngày 25/11/2009 số tiền tăng thêm 900.000 đồng.

Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ là 2.006.910.560 đồng.

Hiện toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB của hộ ông Đ vẫn do Công ty Cổ phần Tập đoàn xây dựng và Du lịch Bình Minh đang tạm giữ.

Trong trường hợp Tòa án có quyết định giải quyết “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa Bà Khuất Thị L và Ông Khuất Văn Đ liên quan đến việc thu hồi đất của ông Đ có hiệu lực thi hành thì Công ty Bình Minh sẽ chuyển toàn bộ kinh phí bồi thường, hỗ trợ GPMB vào tài khoản Trung tâm phát triển quĩ đất thị xã Sơn Tây. Trường hợp Tòa án xác định số tiền này là di sản thừa kế và phải phân chia cho người được hưởng di sản thì việc chi trả tiền thực hiện theo quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Theo qui định khi UBND thị xã Sơn Tây phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ GPMB cho các hộ thì Công ty chuyển kinh phí cho Ban bồi thường GPMB để phối hợp với UBND phường mời các hộ để nhận tiền để bàn giao mặt bằng theo qui định. Tuy nhiên, đối với hộ Ông Khuất Văn Đ không đồng ý nhận tiền và không bàn giao mặt bằng cho Công ty, từ đó làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án từ năm 2009 đến nay Công ty vẫn chưa đưa dự án vào khai thác, sử dụng được.

Người làm chứng ông Hà Đăng T (Nguyên Công chứng viên- phòng Công chứng số 2 tỉnh Hà Tây là người ký xác nhận Văn bản tặng cho tài sản ngày 19/6/1996) trình bày:

Tôi là công chứng viên của phòng Công chứng số 2 Hà Tây từ năm 1995, đến năm 2008 tỉnh Hà Tây sát nhập với Hà Nội chuyển thành phòng Công chứng số 8 thành phố Hà Nội.

Ngày 19/6/1996, với tư cách là Công chứng viên phòng Công chứng số 2 Hà Tây tôi có xác nhân và “Văn bản cho tài sản về việc giao quyền sở hữu nhà, sử d


Hình ảnh văn phòng bào chữa