Luật sư tư vấn tội mua bán người dưới 16 tuổi năm 2021

1.Tư vấn cấu thành tội mua bán phụ nữ
Điều 119 luật hình sự năm 1999 quy định tội mua bán phụ nữ :
1. Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm:
a) Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm;
b) Có tổ chức;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Để đưa ra nước ngoài;
đ) Mua bán nhiều người;
e) Mua bán nhiều lần.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
Bộ luật Hình sự đầu tiên năm 1985 đã quy định tội danh và hình phạt đối với hành vi mua bán phụ nữ. Đến năm 1999, Bộ luật Hình sự mới có bổ sung một số quy định cho phù hợp với tình hình mới.
 
Theo quy định tại Điều 119 Bộ Luật Hình sự 1999, hành vi mua bán phụ nữ là những hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như vàng, ngoại tệ… để trao đổi mua bán phụ nữ, coi phụ nữ như một thứ hàng hóa, xâm hại trực tiếp nhân phẩm, danh dự, quyền tự do của người phụ nữ.
 
Khi việc mua bán xảy ra, người phụ nữ có thể biết hoặc không biết mình là đối tượng bị mua bán; có thể không đồng tình nhưng cũng có thể đồng tình với việc mua bán bản thân mình. Song, dù người phụ nữ đồng ý cho việc mua bán này thì người có hành vi mua bán phụ nữ vẫn phạm tội.
Hậu quả của hành vi mua bán phụ nữ là người phụ nữ đã bị đem ra mua bán, Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi tìm người, liên hệ nơi bán, thỏa thuận giá cả nhưng chưa thực hiện việc mua bán thì được xác định là phạm tội chưa đạt và vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tội “Mua bán trẻ em” (Điều 120) và Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 xác định nữ giới từ 16 tuổi trở lên được coi là phụ nữ và có thể là đối tượng của tội Mua bán phụ nữ.
Tội mua bán phụ nữ là tội phạm nghiêm trọng, do vậy người từ đủ 14 tuổi trở lên nếu có hành vi mua bán phụ nữ thì đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Theo thống kê thì trước đây người phạm tội mua bán phụ nữ thường là người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên). Tuy nhiên thời gian gần đây xuất hiện nhiều trường hợp người phạm tội mới chỉ 15, 16 tuổi tham gia với tư cách đồng phạm.
 
Về hình phạt, điều luật quy định hai khung:
Khung 1 (khung cơ bản): có mức hình phạt từ 2 đến 7 năm.
Khung 2 (khung tăng nặng): có mức hình phạt từ 5 năm đến 20 năm khi người phạm tội có một trong các hành vi sau:
- Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm.
- Có tổ chức là từ 2 người trở tên, có sự phân công vai trò, trách nhiệm của từng người trong hành động.
- Có tính chất chuyên nghiêp là việc người phạm tội coi việc mua bán phụ nữ là nguồn thu nhập chính, sống chủ yếu dựa vào hoạt động phạm tội này.
- Để đưa ra nước ngoài là đưa người phụ nữ ra khỏi biên giới Việt Nam. Khi có hành vi chuẩn bị và tiến hành đưa ra nước ngoài là tội phạm hoàn thành, không cần phải đưa trót lọt người phụ nữ ra nước ngoài.
- Mua bán nhiều người là từ 2 người trở lên.
- Mua bán nhiều lần là từ 2 lần trở lên mà những lần này đều chưa bị phát hiện và xử lý.
Ngoài hình phạt nêu trên, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến
5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
 
Mặc dù tội mua bán phụ nữ được quy định khá đầy đủ trong Bộ luật Hình sự năm 1999, trong thời gian qua đã xuất hiện một số hành vi mà Điều luật chưa quy định. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 19 - 6 - 2009 đã sửa đổi Điều 119 Tội mua bán phụ nữ thành “tội mua bán người” và có hiệu lực từ ngày 01-01-2010.
 
Như vậy, theo Luật sửa đổi thì đối tượng của tội phạm không chỉ còn là phụ nữ mà còn có cả nam giới.
 
2. Khung hình phạt đối với tội mua bán người theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015
+ Khung hình phạt đối với tội mua bán người theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015:
- Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm
- Phạt tù từ 08 năm đến 15
- Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm
+ Khung hình phạt đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015:
- Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm
- Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm
- Phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân
Theo quy định tại Khoản 5, Khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự 2015 thì:
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Như vậy khi người dưới 18 tuổi phạm tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi sẽ bị phạt tù có thời hạn mà không bị phạt tù chung thân, không áp dung hình phạt bổ sung. Người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 thì: Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
 
3. Tội mua bán người dưới 16 tuổi năm 2021
Tội mua bán người dưới 16 tuổi là gì?
Theo quy định tại Điều 151 – Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán người dưới 16 tuổi như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Lợi dụng hoạt động cho nhận con nuôi để phạm tội;
c) Đối với từ 02 người đến 05 người;
d) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Vì động cơ đê hèn;
h) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
i) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên, trừ trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
d) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
e) Đối với 06 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Thứ nhất: Các yếu tố cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi.
Mặt khách quan: Đối với tội mua bán trẻ em, được thể hiện qua hành vi sau:
– Mua đứa trẻ của ngưòi khác nhằm để bán thu lợi.
– Bán đứa trẻ sau khi mua hoặc sau khi bắt trộm để thu lợi.
Cần lưu ý:
Việc mua, bán trẻ em có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên dù dưới bất kỳ hình thức nào thì ngưòi có một trong các hành vi nêu trên vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thực hiện đó.
+ Trẻ em là người bị hại trong trường hợp này là người chưa đủ 16 tuổi.
+ Tội phạm hoàn thành kể từ khi người phạm tội có hành vi nhằm vào việc mua, bán trẻ em. Nếu hậu quả việc mua bán trẻ em chưa xảy ra thì được cọi là phạm tội chưa đạt.
Khách thể:
Các hành vi nêu trên xâm phạm đến quan hệ về quyền được chăm sóc, nuôi và sống chung với cha mẹ, quyền được bảo vệ của trẻ em.
Mặt chủ quan:
Tội phạm nêu trên được thực hiện với lỗi cố ý.
Động cơ thực hiện hành vi mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt nêu trên không phải là dấu hiệu cấu thành cơ bản mà chỉ có ý nghĩa trong việc định khung tăng nặng, lượng hình.
Chủ thể:
Chủ thể của ba tội nêu trên là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ hai: Về hình phạt đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi
Mức hình phạt của các tội này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
– Khung một (khoản 1)
Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan.
– Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Có tổ chức. Được hiểu là có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người (đồng phạm) cùng thực hiện tội phạm này.
+ Có tính chất chuyên nghiệp. Được hiểu là người phạm tội sinh sông chủ yếu dựa vào thu nhập từ việc mua bán trẻ em một cách thường xuyên.
+ Vì động cơ đê hèn (như để trả thù cha mẹ đứa trẻ).
+ Đối với nhiều trẻ em (từ hai trẻ em trở lên)
+ Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân.
+ Để đưa ra nước ngoài;
+ Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo (như sử dụng để bóc lột sức lao động, cho đi ăn xin…)
+ Để sử dụng vào mục đích mại dâm.
+ Tái phạm nguy hiểm (xem giải thích tương tự ở tội giết người).
+ Gây hậu quả nghiêm trọng (như làm cho trẻ em bị tàn tật suốt đời…)
– Hình phạt bổ sung (khoản 3)
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị:
+ Phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
+ Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
 
4.Hình phạt nào cho tội bắt cóc trẻ em?
 
Bắt cóc trẻ em là một loại tội phạm nguy hiểm. Các đối tượng bắt cóc thường nhằm mục đích: Tống tiền; Trả thù cá nhân hoặc Mua bán trẻ em. Dù là thực hiện với mục đích gì thì đây cũng là hành vi cực nguy hiểm, không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến tinh thần, sức khỏe của nạn nhân bị bắt cóc, mà còn ảnh hưởng đến cả những người thân thích của nạn nhân. Xét theo khía cạnh pháp luật, đối tượng bắt cóc trẻ em có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản hoặc Tội mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Cụ thể, theo Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em: Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 03-10 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10-20 năm hoặc tù chung thân: Có tổ chức, Có tính chất chuyên nghiệp; Vì động cơ đê hèn; Đối với nhiều trẻ em; Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; Để đưa ra nước ngoài; Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; Để sử dụng vào mục đích mại dâm; Tái phạm nguy hiểm; Gây hậu quả nghiêm trọng. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 05-50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm hoặc phạt quản chế từ 01-05 năm.
Trong trường hợp đối tượng bắt cóc trẻ em có ý định tống tiền gia đình nạn nhân thì đối tượng này sẽ bị xử lý theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 1999 Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể, người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02-07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 05-12 năm: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Sử dụng vũ khí hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; Đối với nhiều trẻ em; Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11-30%; Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 - dưới 200 triệu đồng;… Trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng thì mức phạt dành cho đối tượng phạm tội này cũng cao hơn. Khung hình phạt cao nhất là phạt tù từ 15-20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội này còn có thể bị phạt tiền từ 10-100 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01-05 năm.
Thực tế hiện nay, phạm vi hoạt động của các đối tượng bắt cóc trẻ em rất rộng, ở bất cứ đâu, với bất cứ gia đình nào và với bất cứ trẻ em nào. Do đó, trước hết mỗi gia đình cần trang bị cho con em mình những kỹ năng sống cần thiết để tự bảo vệ mình. Với những trẻ nhỏ hơn, phụ huynh cần quan tâm, đưa đón và quản lý trẻ, không để trẻ chơi một mình, cân nhắc khi đưa hình ảnh con lên mạng xã hội…
Tìm hiểu thêm về các quy định liên quan đến Tội bắt cóc, chiếm đoạt trẻ em, bạn đọc có thể tham khảo các văn bản sau:
 
5. Đánh tráo trẻ sơ sinh có bị đi tù?
Tóm tắt câu hỏi:
Đánh tráo trẻ sơ sinh có phạm tội?
Tôi xin hỏi Luật sư: Vợ tôi sinh con tại một bệnh viện được một em bé trai khỏe mạnh. Vì khi siêu âm là con trai mà sinh ra là bé gái nên tôi đã xét nghiệm ADN. Tôi đã phát hiện nữa hộ sinh trong bệnh viện đó đánh tráo con tôi cho một gia đình khác lấy một bé gái. Vì lý do gia đình kia đã sinh con thứ tư mà vẫn chưa có bé trai. Tôi được biết là nữ hộ sinh này đã nhận một khoản tiền của gia đình bên kia. Tôi rất bức xúc về hành động này của nữ hộ sinh. Xin hỏi quý Luật sư là nữ hộ sinh này phạm tội gì ạ. Tôi xin cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Xin chào bạn! Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật sư Gia Đìng. Về câu hỏi của bạn, chúng tôi tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:
Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi là quy định mới trong quy định của pháp luật, người có hành vi đánh tráo người dưới 1 tuổi này có thể bị phạt đến 50.000.000 đồng hoặc phạt tù lên đến bảy năm, tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.Từ ngày 1/7/2016 khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thì tội đánh tráo người dưới 1 tuổi sẽ bị xử lý như sau.
Điều 152 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
"1. Người nào đánh tráo người dưới 01 tuổi này với người dưới 01 tuổi khác, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
c) Đối với người dưới 01 tuổi mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
d) Phạm tội 02 lần trở lên.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Đánh tráo trẻ sơ sinh là việc dùng đứa trẻ sơ sinh này đánh tráo với một đứa trẻ sơ sinh khác một cách lén lút. Việc đánh tráo với mục đích có thể là đánh tráo con của người này lấy con của người kia, hoặc đánh tráo đứa trẻ dị tật lấy đứa trẻ lành lặn, đánh tráo bé trai lấy bé gái hoặc ngược lại. Do đó, hành vi của nữ hộ sinh trong trường hợp của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của bộ Luật Hình sự năm 2015.
Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về đánh tráo trẻ sơ sinh có bị đi tù? Chúng tôi hi vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.

Hình ảnh văn phòng bào chữa