Luật sư bào chữa hình phạt cao nhất dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội

1. Khung hình phạt cao nhất dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Hình phạt tù dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp cần thiết và khi xét thấy các biện pháp giáo dục, cải tạo không có nhiều tác dụng đối với tội phạm mà nhóm người này phạm phải.
Điều 91 Bộ luật Hình sự 2015 quy định, người dưới 18 tuổi phạm tội thì không bị xử lý bằng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình.
Bởi vậy, luật chỉ bị áp dụng các hình phạt sau dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội:
- Cảnh cáo
- Phạt tiền
- Cải tạo không giam giữ
- Tù có thời hạn
Nội dung này được quy định tại Điều 98 Bộ luật Hình sự 2015.
Khung hình phạt cao nhất với người dưới 18 tuổi phạm tội
Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 quy định mức phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phải dựa theo độ tuổi, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Theo đó:
- Với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, mức phạt cao nhất:
+ Không quá 18 năm tù nếu phạm vào điều luật có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình.
+ Không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn
- Với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, mức phạt cao nhất:
+ Không quá 12 năm tù nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt chung thân hoặc tử hình
+ Không quá ½ mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn
Do đó, căn cứ quy định của pháp luật thì khung hình phạt cao nhất được áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội là không quá 18 năm tù.
Tuy nhiên, khi một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội và có hành vi thực hiện trước, có hành vi thực hiện sau 18 tuổi thì sẽ được quy định như sau:
+ Nếu hình phạt của hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nặng hơn thì không quá 18 năm tù
+ Nếu hình phạt của hành vi phạm tội sau 18 tuổi nặng hơn thì áp dụng khung hình phạt của tội sau 18 tuổi gây ra.
Trong trường hợp này, nếu một người thực hiện có hành vi phạm tội trước và sau khi đủ 18 tuổi, khung hình phạt áp dụng cho tội sau 18 tuổi gây ra là tử hình thì người này sẽ bị áp dụng khung hình phạt là tử hình.
 
2. Chưa đủ 18 tuổi mà giết người thì chịu hình phạt như thế nào?
Xin hỏi luật sư, em có câu hỏi muốn hỏi luật sư: Bạn em mới 16 tuổi có thực hiện hành vi giết người . Theo tìm hiểu thì em có biết là người dưới 16 tuổi được miễn hình phạt về tội giết người đúng không ạ? Nếu vẫn phải chịu hình phạt thì bạn em phải chịu bao nhiêu năm tù? Có cách nào để bạn em chịu hình phạt nhẹ hơn không ạ?
Hình phạt cho người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi giết người.
Quy định của pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Pháp luật hình sự quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại điều 12:
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
“1. NGƯỜI TỪ ĐỦ 16 TUỔI TRỞ LÊN PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VỀ MỌI TỘI PHẠM, TRỪ NHỮNG TỘI PHẠM MÀ BỘ LUẬT NÀY CÓ QUY ĐỊNH KHÁC.
2. NGƯỜI TỪ ĐỦ 14 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VỀ TỘI PHẠM RẤT NGHIÊM TRỌNG, TỘI PHẠM ĐẶC BIỆT NGHIÊM TRỌNG QUY ĐỊNH TẠI MỘT TRONG CÁC ĐIỀU 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 VÀ 304 CỦA BỘ LUẬT NÀY.”
Một nguyên tắc của Bộ luật hình sự 2015 về vấn đề người chưa thành niên phạm tội là: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả tội phạm. Tuy nhiên luật hình sự có một số quy định một số trường hợp thì phải đủ 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự cụ thể Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi,……
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp của bạn, bạn của bạn tuy mới 16 tuổi tuy nhiên tội giết người là tội rất nghiêm trọng được quy định tại khoản 2 điều 12 nên bạn của bạn vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người của mình.
Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi giết người.
Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tại điều 101:
Điều 101. Tù có thời hạn
“MỨC PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ SAU:
1. ĐỐI VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 16 TUỔI ĐẾN DƯỚI 18 TUỔI KHI PHẠM TỘI, NẾU ĐIỀU LUẬT ĐƯỢC ÁP DỤNG QUY ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN HOẶC TỬ HÌNH, THÌ MỨC HÌNH PHẠT CAO NHẤT ĐƯỢC ÁP DỤNG KHÔNG QUÁ 18 NĂM TÙ; NẾU LÀ TÙ CÓ THỜI HẠN THÌ MỨC HÌNH PHẠT CAO NHẤT ĐƯỢC ÁP DỤNG KHÔNG QUÁ BA PHẦN TƯ MỨC PHẠT TÙ MÀ ĐIỀU LUẬT QUY ĐỊNH;”
Đối với tội cố ý giết người mức hình phạt cao nhất phải chịu là tù chung thân hoặc tử hình, do vậy, với trường hợp phạm tội giết người nếu đủ từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức phạt cao nhất là 18 năm tù. Nếu là tù có thời hạn thì hình phạt cao nhất của bạn sẽ không quá 3/4 hình phạt tù mà luật đã quy định. Tùy vào mức độ và hành vi phạm tội mà tòa tuyên hình phạt đối với bạn của bạn.
 
3. Người phạm tội dưới 18 tuổi nhưng khi kết án đã đủ 18 tuổi
Trong BLHS 2015, Điều 107 về xóa án tích quy định:
1. Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi;
b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;
c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.
2. Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xóa án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới.”
Trên thực tiễn, đã xảy ra trường hợp đối tượng thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi (hoặc 18 tuổi) nhưng đến giai đoạn xét xử, vào thời điểm tuyên án đã thành niên. Vấn đề đặt ra là trường hợp này có được áp dụng quy định tại Điều 107 BLHS không hay phải áp dụng chế định xóa án tích chung được quy định tại Chương X của BLHS.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, vì Điều 107 BLHS đã ghi rõ “Người dưới 18 tuổi bị kết án” và “Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án” nên đương nhiên phải hiểu, chỉ được áp dụng các quy định tại Điều này cho người đến thời điểm xét xử vẫn chưa đủ 18 tuổi. Nếu đến thời điểm xét xử, người phạm tội đã đủ 18 tuổi thì vẫn phải áp dụng chế định xóa án tích chung được quy định tại Chương X của BLHS. Quan điểm này phân tích như sau:
Thứ nhất, tại thời điểm bị kết án, người bị kết án dưới 18 tuổi thì được coi là không có án tích nếu thuộc một trong các trường hợp:
– Tại thời điểm đó, người bị kết án đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (Được hiểu là các tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015).
– Tại thời điểm đó, người bị kết án đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý).
– Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.
Thứ hai, tại thời điểm bị kết án, người bị kết án từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) thì được coi là đương nhiên xóa án tích nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 107 Bộ luật này.
Như vậy, việc xóa án tích chỉ được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội tại thời điểm người đó dưới 18 tuổi đồng thời tại thời điểm bị kết án, người đó vẫn dưới 18 tuổi. Ví dụ:
– A phạm tội quy định tại Điều 123 BLHS 2015 vào thời điểm A đủ 14 tuổi, tại thời điểm bị kết án, A đủ 15 tuổi thì A được coi là không có án tích.
– A phạm tội ít nghiêm trọng tại thời điểm A đủ 16 tuổi, tại thời điểm bị kết án, A đủ 17 tuổi thì A được coi là không có án tích.
– A bị áp dụng biện pháp tư pháp tại Mục 3 Chương XII thì được coi là không có án tích.
– A phạm tội đặc biệt nghiêm trọng tại thời điểm A đủ 16 tuổi, tại thời điểm bị kết án, A trên 17 tuổi thì A sẽ đương nhiên xóa án tích khi có đủ điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 107 Bộ luật này.
Tuy nhiên, đối với trường hợp trên, đến giai đoạn xét xử, vào thời điểm tuyên án người bị kết án đã đủ 18 tuổi thì sẽ không áp dụng Điều 107 nữa mà sẽ áp dụng các quy định tại Chương X của Phần thứ nhất (Những quy định chung). Việc áp dụng các quy định này không trái với các quy định tại Chương XII. việc áp dụng này là phù hợp vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội chưa đủ 18 tuổi đã được hưởng những chính sách khoan hồng của Nhà nước thể hiện trong việc Nhà nước quy định các tội phạm cụ thể mà người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở mức thấp hơn so với người đã thành niên phạm tội. Bởi tại độ tuổi đó, người phạm tội chưa có đầy đủ năng lực pháp luật (khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình). Chính vì thế mà tại thời điểm kết án, người bị kết án khi chưa đủ 18 tuổi cũng sẽ được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước. Do đó sẽ áp dụng các quy định tại Chương XII đối với trường hợp này.
Thứ hai, trên thực tế, có những trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội tại thời điểm dưới 18 tuổi nhưng đến khi kết án thì đã đủ 18 tuổi. Lấy 2 ví dụ điển hình như sau:
– Trường hợp thứ nhất: A phạm tội ít nghiêm trọng tại thời điểm A đủ 16 tuổi, nhưng tại thời điểm kết án A đủ 19 tuổi.
– Trường hợp thứ hai: A phạm tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 123 BLHS lúc A đủ 14 tuổi, nhưng 19 năm sau hành vi mới được phát hiện (còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự) thì A đã 33 tuổi, thời điểm A bị kết án là 34 tuổi.
Trong 2 trường hợp này, người bị kết án đều đủ 18 tuổi. Và đều đã có đầy đủ năng lực pháp luật. Do vậy, việc xóa án tích đối với 2 trường hợp này sẽ được áp dụng các quy định tại Chương X của BLHS như đối với người đã thành niên. Việc áp dụng này là phù hợp và không trái với các quy định tại Chương X (đối với người dưới 18 tuổi phạm tội) vì Chương XII chỉ áp dụng đối với các trường hợp bị kết án tại thời điểm dưới 18 tuổi.
Quan điểm thứ hai cho rằng, trường hợp này áp dụng quy định về xóa án tích tại Điều 107 BLHS; dựa trên những phân tích sau: về kết cấu văn bản, Điều 107 thuộc Chương XII “những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội”. Do đó, như chính bản thân tên gọi của chương này (đã được quy định cụ thể về giới hạn điều chỉnh tại Điều 90 BLHS), mọi điều luật bên trong nó, đều áp dụng với đối tượng thực hiện hành vi phạm tội khi chưa thành niên. Mặt khác, theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo, trường hợp nêu trên cũng cần được áp dụng chế định chưa thành niên, trong đó có quy định về xóa án tích theo Điều 107 BLHS; và cần hiểu quy định của điều luật trong chỉnh thể của nó.
Theo đó, vì Điều 107 BLHS quy định về việc xóa án tích nên đối tượng điều chỉnh đặc thù của nó được gọi tên là “người bị kết án” (do không thể đặt ra vấn đề xóa án tích với người chưa bị kết án được). Bên cạnh đó, cũng vì Điều 107 quy định đối với người chưa thành niên, nên mới diễn đạt là “Người dưới 18 tuổi bị kết án” và “Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án”. Nếu viết đầy đủ phải là “Người phạm tội khi dưới 18 tuổi bị kết án” và “Người phạm tội khi đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án”… Nhà làm luật đã lựa chọn cách quy định như hiện hành để đảm bảo sự ngắn gọn, súc tích cho điều luật, do đó không nên tách riêng câu chữ này để hiểu như quan điểm thứ nhất. Ngoài những lý do như đã phân tích ở trên, còn là để đảm bảo nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc nhân đạo trong thực thi pháp luật. Bởi lẽ, về mặt nội dung, khi đã áp dụng các quy định khác trong BLHS cho người chưa thành niên căn cứ vào thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ như tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt…) không phân biệt thời điểm phát hiện, xử lý như thế nào thì cũng cần áp dụng chế định xóa án tích theo tinh thần đó mới đảm bảo sự thống nhất và phù hợp.
Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi (hoặc 18 tuổi) nhưng đến giai đoạn xét xử, vào thời điểm tuyên án đã thành niên thì có áp dụng Điều 107 BLHS không, hay phải áp dụng chế định xóa án tích chung? Trường hợp này vẫn còn nhiều quan điểm trái chiều trong thực tiễn. Rất mong quý bạn đọc, đồng nghiệp trao đổi để tìm ra cách hiểu đúng nhất về các quy định xóa án tích đối với người phạm tội khi dưới 18 tuổi nhưng khi kết án đã đủ 18 tuổi; tạo cơ sở để kiến nghị cấp có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong trường hợp này.
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com

Hình ảnh văn phòng bào chữa