Luật sư bào chữa tội tàng trữ trái phép chất ma túy

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
                                                                    Tp. HCM ngày … tháng … năm 2025
BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Kính thưa vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
Tôi Luật sư Lê Văn Thông – Trần Minh Hùng - VPLS Gia Đình, thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM, tôi bào chữa cho bị cáo Phùng Đình Hòa.
Tại phiên xét xử sơ thẩm hôm nay, với tư cách luật sư bào chữa,, tôi trình bày một số quan điểm bào chữa cho bị cáo như sau:
1. Ý thức và hoàn cảnh thực hiện hành vi vi phạm pháp luật:
- Bị cáo Phùng Đình Hòa không phải là người nghiện ma túy, điều đó được minh chứng qua việc bị cáo chưa từng bị cơ quan nhà nước xử lý vi phạm hành chính hay có  bản án... về hành vi sử dụng, tàng trữ mua bán trái phép chất mà túy. Ngoài ra, còn thể hiện ở việc mặc dù sau khi khi Hòa cùng Lê Tấn Cường đi nhậu về thì cả hai về cũng ngủ nghỉ tại căn hộ số 14.11 RS1 chung cư Ristar thì trong lúc say xỉn Hòa mới nhớ tới ma túy để sử dụng “thử”, sử dụng lần đầu, nhưng trong hoàn cảnh này bị cáo vẫn không rủ rê Cường “dùng thử” mà chỉ sử dụng thử một mình, cho thấy bị cáo không lôi kéo người khác vào hành vi này.
- Hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo Hòa không được Hòa ý thức, cố tình chuẩn bị từ trước, mà hành vi này là do tính ngẫu nhiên và tự phát khi đi trên đường về bên kia biên giới Campuchia thì người chạy xe ôm gợi ý Hòa dùng thử ma túy cho hết “buồn” thì Hòa mới mua chứ Hòa không có ý thức mua để sử dụng từ trước, không có ý thức và nhận thức được hành vi để trong nhà sử dụng thử “ là hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy. Tuy nhiên, sau khi sử dụng thử và bị cơ quan nhà nước phát hiện, mời về làm việc thì Hòa mới nhận thức được hành vi “để trong nhà sử dụng thử cá nhân, không vì mục đích mua bán, sản xuất để thu lợi bất chính” là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trái phép bị pháp luật nghiêm cấm. Do đã nhận thức được trong quá trình làm việc nên bị cáo Hòa đã rất hợp tác khai báo với cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
- Bị cáo Hòa khai “sau khi đi nhậu ngày 03/1/2025 về thì mới sử dụng mà túy mua tại campuchia về, đây là lần thử đầu tiền”. Đồng thời Việc bị cáo Hòa dùng thử trong lúc say xỉn không làm chủ được hành vi của mình, do bị cáo Hòa gặp khó khăn và áp lực trong công việc làm ăn nên sinh ra nghĩ tiêu cực, mất sự kiểm soát về bản thân nên mới tin người chạy xe ôm gợi ý Hòa dùng thử ma túy cho hết “buồn”.
- Ngoài ra, đây là lần đầu tiên bị cáo sử dụng ma túy, trọng lượng mà túy ít, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa gây nguy hiểm hay tạo ra hậu quả xấu cho xã hội; bị cáo Hòa có khả năng tự cải tạo (vì chưa nghiện), cho tới hiện tại thì không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội về hành vi ma túy. Do đó, cũng đề nghị hội đồng xét xử xem xét trong quá trình xét xử, lượng hình có lợi đối với bị cáo.
2. Yếu tố giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
- Trong quá trình điều tra vụ án thì bị cáo Hòa luôn hợp tác, tích cực và thành khẩn khai báo mọi tình tiết, nội dung liên quan tới vụ án với cơ quan tiến hành tố tụng. Thể hiện tinh thần “Thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải” được quy định tại Điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017. Tình tiết này được Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát ghi nhận trong cáo trạng và kết luận điều tra.
- “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án” là một tình tiết giảm nhẹ trong luật hình sự Việt Nam, được quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tình tiết này phản ánh việc người phạm tội sau khi bị bắt giữ hoặc trong quá trình điều tra đã chủ động, tự giác cung cấp thông tin, chứng cứ, hoặc khai báo đầy đủ, đúng sự thật nhằm hỗ trợ cơ quan điều tra trong việc làm rõ vụ án. Thưa HĐXX theo như các tài liệu có trong HSVA thì ngày ngày 08/1/2025 CQCSĐT CA  Quận Tân Phú, Tp.HCM ra QĐ khởi tố VAHS thì đến ngày ngày 31/5/2025 CQCSĐT đã hoàn thành bản KLĐT VAHS ĐỀ NGHỊ TRUY TỐ số F118/KL-CSMT-Đ4. Điều này cho thấy thời gian khởi tố đến khi kết thúc những vụ án ma túy như thế này là rất nhanh chóng, điều này chứng tỏ có sự hợp tác rất lớn của bị cáo với CQĐT.
- Người phạm tội cụ thể là bị cáo Hòa là lao động chính trong gia đình nuôi 01 con nhỏ, con nhỏ sinh tháng 11/2023 (20 tháng), vợ bị cáo Hòa chỉ nội trợ gia đình, không có công ăn việc làm, không tạo ra thu nhập vì phải ở nhà nuôi trẻ sơ sinh.
Ngoài ra, bị cáo Hòa còn phải nuôi và chăm sóc Cha mẹ già là bà Lê Thị Cúc sinh năm 1949 (76 tuổi). Hiện mẹ bị cáo là bà Cúc bị bệnh tâm thần cụ thể là động kinh toàn bộ và hội chứng động kinh khác (động kinh cục bộ toàn thể hóa), bệnh đái tháo đường nặng, di chứng nhồi máu não, tăng lipit máu hỗn hợp ....(đính kèm hồ sơ bệnh án của bà Cúc đã nộp cho Tòa án).
Mặc dù không được liệt kê rõ ràng trong các tình tiết giảm nhẹ tại Điều 51, tòa án vẫn có thể cân nhắc hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội, trong đó có việc người đó là Lao Động Chính Trong Gia Đình, để áp dụng các tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Việc Tòa áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo là thể hiện sự nhân văn và nhân đạo của nhà nước và pháp luật dành cho bị cáo, vì xét đạo đức thì bị cáo cũng là người có trách nhiệm với gia đình, cha mẹ ruột của mình ở những lúc cha mẹ già yếu, con mọn, còn nhỏ.
3. xử lý vật chứng:
- Căn cứ vào điểm a khoản 2 điều 106 bộ Luật TTHS 2015 quy định về xử lý vật chứng như sau:
2. Vật chứng được xử lý như sau:
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;
            Như vậy, vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội. Căn cứ vào hồ sơ vụ án thì cơ quan tố tụng có thu giữ các vật chứng sau:
- 01 gói niêm phong số 671 (1349/25) /Tân Phú bên ngoài có chữ ký ghi tên Thiếu tá Phan Tấn Quốc (Giám định viên), Bùi Văn Phong (Điều tra viên) bên trong chứa số ma túy sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 16 Pro Max, số sê-ri: G6X6X61J2L, số IMEI 1: 359844767568759, số IMEI 2: 359844769266527, thu giữ củaPhùng Đình Hòa sử dụng cá nhân và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 16 Pro Max, số thuê bao: 0360787989, số sê-ri: LQRPXJ6FRQ, số IMEI 1: 350970408384030, thu giữ của Phùng Đình Hòa sử dụng cá nhân.
Căn cứ vào Bút lục số 90 và 91 về việc kiểm tra 02 điện thoại nêu trên là vật chứng thu giữ thì cơ quan tố tụng xác định: không tìm thấy nội dung tin nhắn và số điện thoại gọi đến liên quan tới việc “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xảy ra lúc 23h ngày 03/1/2025.
Như vậy, có thể khẳng định rằng 01 điện thoại di động hiệu Iphone 16 Pro Max, số sê-ri: G6X6X6 và điện thoại di động hiệu Iphone 16 Pro Max số sê-ri: LQRPXJ6FRQ không phải là công cụ, phương tiện phạm tội. Căn cứ vào Khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015 quy định về thẩm quyền xử lý vật chứng cho tới thời điểm hiện tại thuộc về Tòa án nhân dân khu vực 9, Tp.HCM
3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền:
a) Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;
b) Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;
c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;
d) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
            Như tôi vừa phân tích trên, thì 02 điện thoại của bị cáo Hòa sử dụng vào mục đích cá nhân chứ không sử dụng vào hành vi phạm tội, như vậy thuộc trường hợp cần xem xét trả lại tài sản đã thu giữ không phải là vật chứng cho chủ sở hữu tài sản (là bị cáo Hòa).
4. Kết luận: Thưa HĐXX như lập luận phân tích và cũng như các tình tiết giảm nhẹ như tôi vừa nêu gồm các điểm s, t của Khoản 1 Điều 54, và tình tiết lao động chính trong gia đình, nuôi 01 con nhỏ 20 tháng tuổi, chăm sóc cha mẹ già bị bệnh tâm thần được quy định tại của K2, Đ51 BLHS.
Do bị cáo Hòa có ít nhất 03 tình tiết giảm nhẹ như tôi đã nêu trên, do vậy áp dụng Khoản 3 Điều 54 BLHS thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, có lợi nhất cho bị cáo. Nên HĐXX có thể xem xét áp dụng Điều 65 BLHH, cùng các Nghị quyết 02/2018, nghị quyết 01/2022, của HĐTP TANDTC cho bị cáo được hưởng án treo có cơ hội hòa nhập lại xã hội, làm công dân tốt. Hoặc xét xử 1 mức án thấp nhất cho bị cáo.
Xin cảm ơn HĐXX, VKS đã lắng nghe. 
Người bào chữa
 
Luật sư Lê Văn Thông    Trần Minh Hùng


LS TRẦN MINH HÙNG CHUYÊN GIA TƯ VẤN LUẬT TRÊN HTV, VTV, BÁO CHÍ.

Hình ảnh văn phòng bào chữa