Luật sư tư vấn án treo

Dự thảo án lệ số 08

 

Án lệ số /2018/AL về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không cho hưởng án treo trong “Tội dâm ô đối với trẻ em”

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày tháng năm và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 35/2018/HS-GĐT ngày 01-6-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Dâm ô trẻ em” đối với bị cáo: Nguyễn Khắc T, sinh năm 1940 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Phòng 203 Chung cư A, Trung tâm đô thị B, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Cán bộ hưu trí; con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Đặng Thị T (chết); có vợ và hai con; tiền sự, tiền án: Không.

Bị hại: Cháu Nguyễn Ngọc Ánh D, sinh ngày 08/01/2008 và cháu Trần Hoài A, sinh ngày 08/02/2003.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 16 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Bị cáo bị bệnh cao huyết áp, Parkinson thực hiện hành vi dâm ô đối với trẻ em.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa án không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

- Tình huống án lệ 2:

Bị cáo đã có hành vi dâm ô nhiều lần đối với nhiều trẻ em; bị cáo đang có nhiều đơn tố cáo khác về hành vi dâm ô trẻ em được cơ quan điều tra giải quyết. Hành vi của bị cáo gây bất an và bị lên án mạnh mẽ trong dư luận xã hội.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, Tòa án không được cho bị cáo hưởng án treo.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điểm m, n khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 60, khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1999 (tương ứng với điểm o, q Điều 51; Điều 65, khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015);

- Các điểm a, b, c, d khoản 1, Điều 2 của Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 về “Hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo”.

Từ khóa của án lệ:

“Dâm ô trẻ em”; “bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo Bản cáo trạng số 182/VKS-KSĐT ngày 12/9/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu truy tố Nguyễn Khắc T về tội “Dâm ô đối với trẻ em” theo quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các hành vi:

Hành vi thứ nhất: Khoảng 20 giờ một ngày trong tháng 04 năm 2014, anh Nguyễn Văn T dẫn con trai Nguyễn Võ Tấn M và con gái Nguyễn Ngọc Ánh D (sinh ngày 08/01/2008) đi bộ từ nhà đến khu vực cầu trượt thuộc khuôn viên khu chung cư Lakeside để chơi. Cháu Nguyễn Võ Tấn M và cháu Dương chơi đùa ở khu vực cầu trượt còn anh Nguyễn Văn T ngồi trên ghế đá cách đó khoảng 30m. Trong lúc cháu Dương đang chơi đùa ở khu cầu trượt, Nguyễn Khắc T đi đến gọi cháu Dương “Ra đây ông bảo” thì cháu Nguyễn Ngọc Ánh D chạy lại gần Nguyễn Khắc T. Nguyễn Khắc T bắt chuyện và hỏi “Cháu học lớp mấy? Nhà ở đâu?”. Trong lúc nói chuyện với cháu Nguyễn Ngọc Ánh D, Nguyễn Khắc T vừa nói vừa đưa tay sờ vào bụng cháu Nguyễn Ngọc Ánh D. Tiếp đó, Nguyễn Khắc T đưa tay xuống luồn vào trong quần và sờ vào âm hộ của cháu Nguyễn Ngọc Ánh D. Cháu Nguyễn Ngọc Ánh D phản ứng và hỏi: “Sao ông làm như vậy?” thì Nguyễn Khắc T trả lời “Sờ để xem có lớn không”. Cháu Nguyễn Ngọc Ánh D tiếp tục nói: “Mẹ cháu không cho làm như vậy!” thì Nguyễn Khắc T dừng lại không tiếp tục sờ âm hộ của cháu Nguyễn Ngọc Ánh D nữa. Cháu Nguyễn Võ Tấn M đứng chơi cạnh đó quan sát thấy Nguyễn Khắc T có hành vi dùng tay sờ vào âm hộ của cháu Nguyễn Ngọc Ánh D nên cháu Nguyễn Võ Tấn M chạy đến gọi anh Nguyễn Văn T và nói “Bố ơi ông kia sờ em” và chỉ tay về phía cháu Nguyễn Ngọc Ánh D và Nguyễn Khắc T. Nghe vậy, anh Nguyễn Văn T chạy đến hỏi Nguyễn Khắc T “Tại sao ông già rồi mà còn làm bậy bạ với con tôi”. Nguyễn Khắc T trả lời “Tôi đâu có làm gì đâu, tại tôi quý cháu nên chỉ sờ má và chân, tay của cháu”. Anh Nguyễn Văn T hỏi cháu Nguyễn Ngọc Ánh D “Ông ấy làm gì con” thì cháu Nguyễn Ngọc Ánh D chỉ tay vào âm hộ của cháu Nguyễn Ngọc Ánh D và trả lời “Ông ấy sờ vào chỗ này”. Bực tức, anh Nguyễn Văn T dùng tay tát một cái trúng mặt Nguyễn Khắc T rồi đi đến gọi bảo vệ chung cư là ông Nguyễn Văn Đồng đến giải quyết. Khi anh Nguyễn Văn T và ông Đồng quay lại thì Nguyễn Khắc T đã bỏ đi. Sau đó, ông Tuấn, cháu Nguyễn Ngọc Ánh D, cháu Nguyễn Võ Tấn M về nhà còn kể lại sự việc cho bà Võ Thị Doan là mẹ cháu Nguyễn Ngọc Ánh D nghe.

Hành vi thứ hai: Khoảng 18 giờ đến 19 giờ một ngày cuối tháng 05 năm 2014, tại căn hộ 102 Chung cư A, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ có cháu Trần Hoài A (sinh ngày 08/02/2003) ở nhà, do cha và mẹ của cháu Trần Hoài A đi đến nhà bà ngoại ở đường Trần Quý Cáp, thành phố D nên đóng cửa và giao chìa khóa nhà cho cháu Trần Hoài A cất giữ. Khi cháu Trần Hoài A đang quỳ trên giường, người áp sát vào cửa số để nói chuyện với bạn là cháu Nguyễn Khánh Như N đứng phía ngoài cửa sổ thì Nguyễn Khắc T đi đến nói chuyện chung với cháu Ngọc và Trần Hoài A. Sau đó, Nguyễn Khắc T đi ra phía sau ôm bụng cháu Ngọc và định đưa tay lên phía ngực cháu Ngọc thì bị cháu gạt tay của Nguyễn Khắc T ra và bỏ chạy đến vị trí lan can lối đi xuống bờ hồ Lakeside cách chỗ Nguyễn Khắc T khoảng 20m đứng quan sát. Lúc này, Nguyễn Khắc T đi lại đứng sát cửa sổ, đối diện với cháu Trần Hoài A và đưa hai tay luồn qua song cửa sổ rồi dùng cả hai bàn tay vỗ vào hai bắp tay của cháu Trần Hoài A, vừa vỗ vừa nói “dạo này ăn nhiều, mập mạp, trắng trẻo lên ha...”, Nguyễn Khắc T vừa vỗ, vừa nói, vừa cười. Tiếp đó, Nguyễn Khắc T dùng tay trái giữ bắp tay phải của cháu Trần Hoài A còn tay phải đưa xuống xoa ngực của cháu Trần Hoài A và tiếp tục nói chuyện với Trần Hoài A. Sờ ngực của Trần Hoài A được một lúc thì Nguyễn Khắc T đưa tay phải xuống xoa bụng rồi xoa âm hộ của cháu Trần Hoài A, Nguyễn Khắc T lặp lại hành vi sờ bụng, ngực và âm hộ của cháu Trần Hoài A kéo dài khoảng từ 10 đến 15 phút.

Trong thời gian Nguyễn Khắc T thực hiện hành vi sờ, xoa vào ngực, bụng, âm hộ của cháu Trần Hoài A thì cháu Ngọc đứng ở chỗ lan can cách Nguyễn Khắc T khoảng 20m nhìn thấy, cháu Ngọc muốn nhìn rõ hơn nên đã chạy lại gần đứng ở sảnh của Chung cư cách chỗ Nguyễn Khắc T khoảng 10m và chạy qua chạy lại khu vực sảnh Chung cư Lakeside nên quan sát được toàn bộ sự việc. Do muốn bảo vệ bạn nên cháu Ngọc chạy đến nói với cháu Trần Hoài A là đóng cửa sổ lại đừng để Nguyễn Khắc T có hành vi như vậy nữa thì cháu Trần Hoài A đóng cửa sổ lại và ngồi trong phòng. Sau khi cháu Trần Hoài A đóng cửa sổ thì Nguyễn Khắc T bỏ đi, một lúc sau Nguyễn Khắc T quay lại gõ cửa nhưng cháu Trần Hoài A không mở. Sau khi bị Nguyễn Khắc T thực hiện hành vi dâm ô, cháu Trần Hoài A sợ không dám nói ngay cho cha mẹ cháu biết. Hiện nay gia đình cháu Trần Hoài A không còn sinh sống tại căn hộ 102 Chung cư A, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (hiện nay người khác đang sử dụng để bán tạp hóa).

Ngoài ra, Nguyễn Khắc T còn bị tố cáo có hành vi dâm ô đối với trẻ em khác, cụ thể:

1/ Ngày 02/7/2016, ông VIJAYAKUMAR NARAYANSW AMY (quốc tịch Ấn Độ), địa chỉ: số 02 đường Thống Nhất, Phường 1, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nộp “đơn tố cáo hành vi dâm ô trẻ em” (BL 278-281) tại Công an Phường C, thành phố D trình bày: “Ngày 19/6/2014, tại khuôn viên chung cư A, khu đô thị B, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tôi đã chứng kiến tận mắt hành vi dâm ô trẻ em gái của ông Nguyễn Khắc T, cụ thể tay phải bỏ vào trong quần lót vị trí bộ phận sinh dục của bé gái...Ngày 24/6/2016, tôi đã thấy người đàn ông này đi cùng với một bé gái. Ông ta mua cho bé một gói bánh. Tôi khẳng định ông này cũng có hành vi dâm ô với bé. Tôi đã đưa điện thoại lên chụp hình thì ông ta nhìn thấy và vội vã đi vào trong sảnh chung cư. Tôi đã chuyển hình ảnh này tới một người bạn khác của tôi để cô ấy thông báo cho gia đình bé gái”. Cơ quan điều tra xác định được bé gái trong hình theo đơn tố cáo của ông VIJAYAKUMAR NARAYANSW AMY là cháu Đào Thu Ngân (sinh ngày 25/02/2009) con bà Bùi Thị Hải (sinh năm 1977; chỗ ở: Số 780/37/183 Bình Giã, phường 11, thành phố D). Tuy nhiên, bà Hải và gia đình không đồng ý để Cơ quan điều tra tiếp xúc, lấy lời khai của cháu Ngân về nội dung vụ việc trên.

Theo ông Lê Sỹ Lâm - trực ban Công an Phường C, ông Trần Đức Hoàng - Cảnh sát khu vực khu phố 6, phường C, ông Đào Văn An - nguyên phó trưởng Công an Phường C xác định có nhận được đơn tố giác của ông VIJAYAKUMAR NARAYANSW AMY, tại thời điểm nhận tin báo qua rà soát và xác minh thì không phát hiện bị hại nên Công an Phường C không tiếp tục giải quyết vụ việc theo tin báo nêu trên và không tiến hành lập hồ sơ vụ việc.

2/ Ngày 26/6/2016, bà Trần Thị Thu T, địa chỉ: Phòng 201 chung cư A, khu đô thị B, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến Công an Phường C tố cáo Nguyễn Khắc T có hành vi dâm ô (dùng tay sờ soạng vào vùng kín và miệng cắn vào vùng kín) với con ruột của chị là cháu Trương Nam T (sinh ngày 03/12/2009) tại khu vực cầu thang thang, tầng hầm chung cư A, khu đô thị B, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (BL 188).

3/ Trên cơ sở đơn tố cáo của bà Trần Thị Thu T, bà Thủy có cung cấp thông tin về một số cháu gái khác từng bị ông Nguyễn Khắc T có hành vi dâm ô. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố D mở rộng điều tra và trên cơ sở trình báo của cháu Nguyễn Anh T (sinh ngày 05/10/2002) đã Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 158/QĐ ngày 18/8/2016 “Dâm ô đối với trẻ em” xảy ra năm 2012 tại chung cư A, khu đô thị B, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Theo Bản kết luận điều tra số 212/KLĐT ngày 25/7/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố D thì đối với vụ cháu Nguyễn Anh T và những cháu gái còn lại, xét thấy chưa đủ chứng cứ để buộc tội Nguyễn Khắc T nên Cơ quan điều tra tách riêng để tiếp tục điều tra, nếu thu thập được thêm chứng cứ sẽ xem xét, xử lý sau theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2017/HSST ngày 17/11/2017, Toà án nhân dân thành phố D quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Khắc T phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em”.

Áp dụng: Điểm a, b khoản 2 Điều 116; điểm m khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt Nguyễn Khắc T 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 27/11/2017, bị cáo Nguyễn Khắc T có đơn kháng cáo kêu oan.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 70/2018/HS-PT ngày 11/5/2018, Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quyết định:

Chấp nhận một phần kháng cáo bị cáo Nguyễn Khắc T sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, như sau:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Khắc T phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em”.

Áp dụng khoản 1 Điều 116; điểm m, n khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; các điểm a, b, c, d khoản 1, Điều 2 của Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 về “Hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo”; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999;

Xử phạt: Nguyễn Khắc T 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 11/5/2018).

Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Tại Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 07/2018/KN-HS ngày 17/5/2018, Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 70/2018/HS-PT ngày 11/5/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 70/2018/HS-PT ngày 11/5/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với Nguyễn Khắc T, để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trình bày quan điểm giải quyết vụ án:

Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra lại tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đã có đủ chứng cứ chứng minh bị cáo Nguyễn Khắc T là người đã thực hiện hành vi dâm ô đối với cháu Nguyễn Ngọc Ánh D tại khu vực cầu trượt thuộc khuôn viên khu chung cư Lakeside phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào khoảng 20 giờ một ngày trong tháng 04 năm 2014; đủ chứng cứ chứng minh bị cáo Nguyễn Khắc T là người đã thực hiện hành vi dâm ô đối với cháu Trần Hoài A tại khu vực cửa sổ căn hộ 102 Chung cư Lakeside Al, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào buổi tối một ngày trong tháng 5 năm 2014.

Tòa án cấp phúc thẩm đã sai sót trong việc xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đã được kiểm tra tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, dẫn đến nhận định bị cáo Nguyễn Khắc T chỉ phạm tội dâm ô đối với cháu Nguyễn Ngọc Ánh D để từ đó chuyển khung hình phạt đối với Nguyễn Khắc T từ khoản 2 Điều 116 xuống khoản 1 Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 1999 không đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, Hội đồng xét xử phúc thẩm còn có sai sót trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46 và áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999 cho Nguyễn Khắc T hưởng án treo không đúng quy định.

Ngoài 02 hành vị đã truy tố, xét xử nêu trên, Nguyễn Khắc T còn bị tố giác có hành vi dâm ô đối với nhiều trẻ em gái khác, như: Cháu Trương Nam T (sinh ngày 03/12/2009); cháu Đào Thu Ngân (sinh ngày 25/02/2009); cháu Nguyễn Anh T (sinh ngày 05/10/2003), nhưng Cơ quan điều tra thành phố D không khởi tố trong cùng một vụ án mà tách ra để điều tra riêng lẻ từng vụ việc là không đảm bảo tính khách quan, toàn diện. Ngoài ra, còn làm bất lợi thêm tình trạng của bị cáo khi phải bị xét xử nhiều lần, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án. Trường hợp này lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải căn cứ điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi “Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm”.

Với căn cứ như đã nêu, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị: Hội đồng giám đốc thẩm áp dụng căn cứ Điều 387, Khoản 3 Điều 388, Điều 391 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xem xét lại toàn bộ vụ án, chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đề nghị hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 70/2018/HSPT ngày 11/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân thành phố D để điều tra, xét xử lại theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về hành vi dâm ô đối với bị hại Nguyễn Ngọc Ánh D (sinh ngày 08/01/2008):

Qua xem xét, đánh giá toàn bộ các chứng cứ đã thu thập từ quá trình điều tra và xét xử sơ thẩm, phúc thẩm cho thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm kết tội Nguyễn Khắc T về hành vi dâm ô đối với bị hại Nguyễn Ngọc Ánh D tại khu vực cầu trượt thuộc khuôn viên khu chung cư Lakeside phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào khoảng 20 giờ một ngày trong tháng 04 năm 2014 là có căn cứ như nội dung các tình tiết mà bản cáo trạng đã truy tố.

[2] Về hành vi dâm ô đối với bị hại Trần Hoài A (sinh ngày 08/02/2003):

Tại Bản tự khai ngày 20/8/2016 (BL số 79), Biên bản ghi lời khai vào các ngày 20/8/2016, 25/3/2017, 26/3/2017 (BL số 69-78) có người giám hộ của bị hại, luật sư trợ giúp pháp lý, bị hại Trần Hoài A trình bày: Vào khoảng 18 giờ đến 19 giờ một ngày cuối tháng 05 năm 2014, khi đang nói chuyện với bạn là Nguyễn Khánh Như N đứng phía ngoài cửa sổ căn hộ 102 Chung cư A, phường C, thành phố D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì Nguyễn Khắc T đi đến nói chuyện chung với Nguyễn Khánh Như N và Trần Hoài A. Sau đó, Nguyễn Khắc T đi ra phía sau ôm bụng Nguyễn Khánh Như N và định đưa tay lên phía ngực Nguyễn Khánh Như N thì bị Nguyễn Khánh Như N gạt tay của Nguyễn Khắc T ra và bỏ chạy. Sau khi Nguyễn Khánh Như N bỏ chạy, Nguyễn Khắc T đi lại đứng sát cửa sổ, đưa hai tay luồn qua song cửa sổ sờ vào ngực và bộ phận sinh dục của Trần Hoài A. Bị hại Trần Hoài A đã phản ứng giằng co để Nguyễn Khắc T buông tay ra nhưng Nguyễn Khắc T vẫn giữ chặt tay Trần Hoài A lại để tiếp tục sờ vào ngực và bộ phận sinh dục của Trần Hoài A.

Người làm chứng Nguyễn Khánh Như N (sinh này 01/4/2003) (BL số 84 – 91) trình bày: Khi Nguyễn Khánh Như N đang đứng nói chuyện với bị hại Trần Hoài A tại cửa sổ căn hộ 102 Chung cư A, phường C, thành phố D (nhà của gia đình bị hại Trần Hoài A) thì Nguyễn Khắc T đến nói chuyện với Nguyễn Khánh Như N và bị hại Trần Hoài A. Sau đó, Nguyễn Khắc T vòng ra đằng sau ôm vào người Nguyễn Khánh Như N thì Ngọc gạt tay Nguyễn Khắc T ra và chạy đến bậc thang đi xuống công viên của chung cư, vị trí cách cửa sổ khoảng 20 mét. Vì tò mò Nguyễn Khánh Như N quay lại gần hơn (cách khoảng 10 mét) thì thấy Nguyễn Khắc T thò tay vào bên trong cửa sổ sờ, xoa vào ngực, bụng, âm hộ của bị hại Trần Hoài A. Để bảo vệ bạn, Nguyễn Khánh Như N chạy đến gần và nói với bị hại Trần Hoài A đóng cửa sổ lại để Nguyễn Khắc T không làm như vậy nữa. Nghe lời bạn, bị hại Trần Hoài A đóng cửa lại, được một lúc thì Nguyễn Khắc T bỏ đi.

Quá trình điều tra, Nguyễn Khắc T khai có quen và thân thiết với bị hại Trần Hoài A, thường xuyên gặp và xoa đầu, vỗ vai bị hại Trần Hoài A; còn đối với Nguyễn Khánh Như N thì không quen biết (BL số 157, 158). Nguyễn Khắc T phủ nhận toàn bộ lời khai của Nguyễn Khánh Như N và bị hại Trần Hoài A; không thừa nhận các hành vi nêu trên.

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm nhận thấy:

1/ Biên bản nhận dạng thực hiện ngày 12/8/2016 và ngày 20/8/2017 (BL số 54-62); các cháu Trần Hoài A, Nguyễn Khánh Như N đều nhận dạng chính xác Nguyễn Khắc T là người thực hiện hành vi dâm ô đối với cháu Trần Hoài A thông qua các bản ảnh; các cháu Trần Hoài A và Nguyễn Khánh Như N cũng nhận dạng chính xác hình ảnh của nhau thông qua các bản ảnh.

2/ Biên bản đối chất giữa cháu Trần Hoài A và Nguyễn Khắc T, giữa cháu Nguyễn Khánh Như N và Nguyễn Khắc T thực hiện ngày 20/8/2016 (BL số 104,105); Nguyễn Khắc T cho rằng lời khai của các cháu Trần Hoài A và Nguyễn Khánh Như N là sai nhưng cháu Trần Hoài A và Nguyễn Khánh Như N đều khẳng định Nguyễn Khắc T đã đưa tay phải qua cửa số sờ ngực và bộ phận sinh dục (sờ bên ngoài áo quần) của cháu Trần Hoài A.

3/ Biên bản đối chất giữa cháu Trần Hoài A, cháu Nguyễn Khánh Như N thực hiện ngày 26/3/2017 (BL số 106, 107), các cháu Trần Hoài A và Nguyễn Khánh Như N đã nhớ lại và xác định thời gian xảy ra vụ án là vào cuối năm các cháu học lớp 5, gần vào hè năm 2014, sau khi kết thúc năm học lớp 5 thì cháu Trần Hoài A cùng gia đình chuyển ra sinh sống tại Hà Nội.

4/ Biên bản xác định địa điểm thực hiện các ngày 12/8/2016, 20/8/2016, biên bản đối chất ngày 26/3/2017; các cháu Trần Hoài A và Nguyễn Khánh Như N chỉ rõ địa điểm xảy ra hành vi phạm tội là khu vực cửa sổ phòng ngủ của cháu Trần Hoài A thuộc căn hộ số 102 Chung cư A.

5/ Bản ảnh hiện trường thực hiện ngày 15/3/2017, Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra thực hiện ngày 22/3/2017 đã dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, lập bản ảnh xác định vị trí xảy ra hành vi phạm tội đều phù hợp với lời khai của các cháu Trần Hoài A và Nguyễn Khánh Như N.

6/ Các biên bản lấy lời khai của các nhân chứng khác như gia đình bị hại Trần Hoài A; ông VIJAYAKUMAR NARAYANSW AMY (quốc tịch Ấn Độ), bà Trần Thị Thu T là những người làm đơn tố giác Nguyễn Khắc T...

Những tài liệu nêu trên được thu thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định của tố tụng hình sự và được thẩm tra tại phiên tòa sơ thẩm, cho thấy lời khai của bị hại Trần Hoài A và nhân chứng Nguyễn Khánh Như N là phù hợp nhau đối với từng tình tiết về không gian và thời gian xảy ra vụ án cũng như về hành vi cụ thể của bị cáo Nguyễn Khắc T. Hơn nữa không có dấu hiệu mớm cung hay dẫn dắt lời khai của bất kỳ ai đối với bị hại Trần Hoài A và nhân chứng Nguyễn Khánh Như N, giữa gia đình của bị hại Trần Hoài A và gia đình cháu Nguyễn Khánh Như N không có mâu thuẫn với bị cáo Nguyễn Khắc T. Chính bị cáo Nguyễn Khắc T cũng thừa nhận thân thiết với cháu Trần Hoài A, thường xuyên xoa đầu, vỗ vai cháu (BL 157). Từ đó có đủ căn cứ xác định Nguyễn Khắc T đã thực hiện hành vi dâm ô đối với bị hại Trần Hoài A. Tòa án cấp sơ thẩm kết tội bị cáo Nguyễn Khắc T về tội “Dâm ô đối với trẻ em” trong trường hợp này là đúng người, đúng tội.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử không thẩm tra lại đầy đủ các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét kết tội đối với Nguyễn Khắc T mà lại nhận định chủ quan tại thời điểm xảy ra hành vi dâm ô theo cáo trạng truy tố thì bị hại Trần Hoài A đã đủ 11 tuổi, phát triển bình thường, học giỏi, nếu bị Nguyễn Khắc T xâm hại thì phải có hành vi chống trả, vùng vẫy, kêu cứu chứ không thể để bị xâm hại trong khoảng thời gian từ 10 đến 15 phút được, từ đó loại trừ hành vi dâm ô của Nguyễn Khắc T đối với bị hại Trần Hoài A là không có căn cứ, phiến diện trong thẩm vấn, dẫn đến bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo. Từ đó áp dụng khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1999, giảm hình phạt cho bị cáo xuống còn 18 tháng tù là không đúng quy định của pháp luật.

Mặt khác, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định bị cáo bị bệnh cao huyết áp, Parkison nên có ảnh hưởng đến nhận thức, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình”, là không có căn cứ pháp luật. Ngoài hai hành vi phạm tội bị đưa ra xét xử trong vụ án này, bị cáo còn bị nhiều đơn tố cáo khác về cùng hành vi dâm ô trẻ em đã được Cơ quan điều tra tách ra để giải quyết nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo: “Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội....” là không thuyết phục. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền của trẻ em được pháp luật bảo vệ, cụ thể đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần đối với trẻ em là bị hại; gây bất an và bị lên án mạnh mẽ trong dư luận xã hội, cần phải được xử phạt nghiêm minh để vừa có tác dụng trừng trị, giáo dục người phạm tội, đồng thời góp phần ngăn ngừa tội phạm xâm hại đối với trẻ em nói chung mà đặc biệt là tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em nói riêng. Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người già” được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, đối với bị cáo sau khi phạm tội không tỏ ra ăn năn hối cải, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Dâm ô đối với trẻ em” là thỏa đáng. Việc bắt bị cáo chấp hành hình phạt là cần thiết.

[3] Với những cơ sở như đã phân tích, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Nguyễn Khắc T đã thực hiện hành vi dâm ô đối với hai bị hại Nguyễn Ngọc Ánh D, bị hại Trần Hoài A và áp dụng điểm b khoản 2 Điều 116 “phạm tội đối với nhiều trẻ em” là có căn cứ. Hình phạt 03 năm tù áp dụng cho bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm áp dụng thêm tình tiết “phạm tội nhiều lần” theo điểm a khoản 2 Điều 116 là không chính xác vì đối với mỗi bị hại bị cáo chỉ thực hiện một lần dâm ô. Việc loại bỏ tình tiết này không làm thay đổi bản chất vụ án, không ảnh hưởng đến tội danh và hình phạt đối với bị cáo nên cần được giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm để thi hành.

[4] Đối với các hành vi dâm ô các cháu khác mà Nguyễn Khắc T bị tố cáo, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố D và Viện kiểm sát nhân dân dân thành phố D tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ Điều 382, Điều 387, khoản 2 Điều 388, Điều 390, 394 và Điều 395 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

1. Chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 70/2018/HS-PT ngày 11/5/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với Nguyễn Khắc T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Toà án nhân dân thành phố D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

3. Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định bị cáo bị bệnh cao huyết áp, Parkison nên có ảnh hưởng đến nhận thức, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình”, là không có căn cứ pháp luật.

Ngoài hai hành vi phạm tội bị đưa ra xét xử trong vụ án này, bị cáo còn bị nhiều đơn tố cáo khác về cùng hành vi dâm ô trẻ em đã được Cơ quan điều tra tách ra để giải quyết nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo: “Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội....” là không thuyết phục. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền của trẻ em được pháp luật bảo vệ, cụ thể đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần đối với trẻ em là bị hại; gây bất an và bị lên án mạnh mẽ trong dư luận xã hội, cần phải được xử phạt nghiêm minh để vừa có tác dụng trừng trị, giáo dục người phạm tội, đồng thời góp phần ngăn ngừa tội phạm xâm hại đối với trẻ em nói chung mà đặc biệt là tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em nói riêng. Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người già” được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, đối với bị cáo sau khi phạm tội không tỏ ra ăn năn hối cải, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Dâm ô đối với trẻ em” là thỏa đáng. Việc bắt bị cáo chấp hành hình phạt là cần thiết.”



LS TRẦN MINH HÙNG, LS GIỎI VÀ GIÀU KINH NGHIỆM BÀO CHỮA NHIỀU VỤ ÁN LỚN NÊN ĐƯỢC NHIỀU ĐÀI TRUYỀN HÌNH QUỐC GIA NHƯ HTV, VTV,VOV,VOH, TRUYỀN HÌNH CÔNG AN, QUỐC HỘI, QUỐC PHÒNG, TÂY NINH, CẦN THƠ, BÌNH DƯƠNG, VĨNH LONG, BÁO CHÍ CHÍNH THỐNG, NHIỀU TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỜI PHỎNG VẤN, CHIA SẼ KINH NGHIỆM, TRAO ĐỔI PHÁP LÝ, GÓP Ý KIẾN PHÁP LÝ CHO NGƯỜI DÂN, SINH VIÊN, CHO CÁC CHUYÊN GIA.


Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

                    Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang, Đài Bình Dương... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Bào chữa chủ tịch Huyện Đông Hòa, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái, bào chữa vụ án cựu Cảnh sát Buôn Lậu và các bị cáo kiên quan, bào chữa vụ khai thác cát Cần giờ- Tiền Giang, bào chữa vụ chiếm đoạt tiền công nghệ của nước Úc của bị can về công nghệ, bào chữa vụ Mua bán khẩu trang mùa covid, bào chữa nhiều vụ án ma túy, bào chữa vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn của tổ chức tín dụng... .… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
64 Võ Thị Sáu, Tân Định, quận 1, TPHCM
68/147 Trần Quang Khải (số mới Trần Nguyên Đán), Tân Định, Quận1, TPHCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Bản án 40/2021/HS-PT ngày 08/11/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 40/2021/HS-PT NGÀY 08/11/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 08 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 73/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng10 năm 2021 đối với bị cáo Trần Trọng T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 89/2021/HSST ngày 18/08/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Bản án 40/2021/HS-PT ngày 08/11/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 40/2021/HS-PT NGÀY 08/11/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 08 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 73/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng10 năm 2021 đối với bị cáo Trần Trọng T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 89/2021/HSST ngày 18/08/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Bị cáo có kháng cáo Trần Trọng T ( M), sinh năm 1972 tại tỉnh Bình Định; trú tại: Thôn 2, xã I, huyện I, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; con ông Trần Trọng H (đã chết) và bà Võ Thị S (đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1972 và có 05 con; tiền án, tiền sự: không.

Quy định pháp luật về tội chống người thi hành công vụ

Theo Điều 330 Bộ Luật Hình sự, tội chống người thi hành công vụ được quy định như sau:

Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

  • Có tổ chức
  • Phạm tội 02 lần trở lên
  • Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội
  • Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên