Luật sư tư vấn đòi lại đất đã hiến cho cơ sở tôn giáo có được không?

1. Cấp sổ đỏ cho cơ sở tôn giáo theo quy định hiện hành
Đất cơ sở tôn giáo
Theo quy định tại Điều 159 Luật Đất đai 2013, Đất cơ sở tôn giáo bao gồm: đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.
Việc cấp đất cho Cơ sở tôn giáo được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Điều kiện cấp sổ đỏ cho Cơ sở tôn giáo
Điều kiện cấp sổ đỏ cho Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất được quy định tại Khoản 4 Điều 102 Luật Đất đai 2013, bao gồm các điều kiện sau đây:
– Được Nhà nước cho phép hoạt động;
– Không có tranh chấp;
– Không phải là đất nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho sau ngày 01 tháng 7 năm 2004.
Cơ quan có thẩm quyền cấp sổ đỏ
UBND cấp Tỉnh nơi có đất là cơ quan có thẩm quyền ký cấp Sổ đỏ đối với đất mà cơ sở tôn giáo đang sử dụng. (Điều 28 Nghị định 43/2014/NĐ-CP)
Nguyên tắc thực hiện cấp sổ đỏ cho tổ chức tôn giáo
Kê khai diện tích đất đang thực tế sử dụng
Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất mà chưa được cấp sổ đỏ phải tự rà soát, kê khai việc sử dụng đất và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo các nội dung sau đây:
– Tổng diện tích đất đang sử dụng;
– Diện tích đất cơ sở tôn giáo phân theo từng nguồn gốc: Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao; nhận chuyển nhượng; nhận tặng cho; mượn của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; tự tạo lập; nguồn gốc khác;
– Diện tích đất mà cơ sở tôn giáo đã cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mượn, ở nhờ, thuê;
– Diện tích đất đã bị người khác lấn, chiếm.
Kiểm tra diện tích đất mà cơ sở tôn giáo kê khai
UBND Cấp Tỉnh nơi có đất kiểm tra thực tế, xác định ranh giới cụ thể của thửa đất và quyết định xử lý theo quy định sau đây:
– Diện tích đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất của cơ sở tôn giáo và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đó để giải quyết nhằm bảo đảm quyền lợi về sử dụng đất của các bên phù hợp với thực tế;
– Diện tích đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì giải quyết như đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân mượn đất, thuê đất của hộ gia đình, cá nhân khác theo quy định của pháp luật đất đai;
– Diện tích đất mở rộng cơ sở tôn giáo mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; bị lấn, bị chiếm; đang có tranh chấp thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết dứt điểm theo quy định của pháp luật.
Cấp sổ đỏ cho cơ sở tôn giáo đủ điều kiện được cấp
Diện tích đất của cơ sở tôn giáo sau khi đã xử lý theo quy định tại Khoản 2 Điều 28 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và có đủ điều kiện quy định tại Khoản 4 Điều 102 của Luật Đất đai thì cơ sở tôn giáo được cấp sổ đỏ.
Hình thức sử dụng đất: giao đất không thu tiền sử dụng đất;
Thời hạn sử dụng đất: ổn định lâu dài.
Lưu ý: Đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, làm cơ sở hoạt động từ thiện (kể cả trường hợp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho trước ngày 01 tháng 7 năm 2004) thì được cấp sổ đỏ theo hình thức và thời hạn sử dụng đất tương ứng với mục đích đó như đối với hộ gia đình, cá nhân.
Thủ tục thực hiện cấp sổ đỏ
Bước 1. Chuẩn bị hồ sơ
Cơ sở tôn giáo chuẩn bị một bộ hồ sơ bao gồm các giấy tờ theo quy định tại Điều 8 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT:
– Đơn đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo Mẫu số 04a/ĐK ban hành kèm theo Thông tư 24/2014/TT-BTNMT;
– Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất;
– Báo cáo kết quả rà soát hiện trạng sử dụng đất theo Mẫu số 08/ĐK ban hành kèm theo Thông tư 24/2014/TT-BTNMT;
– Chứng từ thực hiện nghĩa vụ tài chính; giấy tờ liên quan đến việc miễn, giảm nghĩa vụ tài chính về đất đai, tài sản gắn liền với đất (nếu có).
Bước 2. Nộp hồ sơ
Nộp hồ sơ tại văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở tài nguyên và môi trường nơi có đất.
Nơi chưa thành lập Văn phòng đăng ký đất đai thì Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh.
Lưu ý: Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ, cơ quan nhà nước sẽ ra thông báo và hướng dẫn Người sử dụng đất bổ sung trong thời hạn 03 ngày làm việc
Bước 3. Thẩm định hồ sơ
Văn phòng đăng ký đất đai chuyển hồ sơ cho UBND Tỉnh để thẩm định theo quy định tại Điều 28 Nghị định 43/2014/NĐ-CP.
Bước 4. Trao sổ đỏ cho cơ sở tôn giáo
Sau khi thẩm định hồ sơ mà cơ sở tôn giáo đáp ứng được các điều kiện mà pháp luật đặt ra thì UBND tỉnh cấp Sổ đỏ cho cơ sở tôn giáo.
Văn phòng đăng ký đất đai trao sổ đỏ được cấp cho Cơ sở tôn giáo.
Thời hạn thực hiện: Không quá 30 ngày (Nghị định 01/2017/NĐ-CP)
Đối với các xã miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian thực hiện đối với từng loại thủ tục quy định tại Điều này được tăng thêm 10 ngày, trừ thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai.
Lưu ý: Thời hạn được tính kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; không tính thời gian các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật; không tính thời gian tiếp nhận hồ sơ tại xã, thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất; không tính thời gian xem xét xử lý đối với trường hợp sử dụng đất có vi phạm pháp luật, thời gian trưng cầu giám định.
 
2. Đòi lại đất đã hiến cho cơ sở tôn giáo có được không?
Về nguồn gốc đất: là đất của ông Phạm Văn A (cha bà B) hiến cho Giáo hội phật giáo Hòa Hảo xây dựng hội quán (Giáo hội có trả cho ông A số tiền nhưng không rõ là bao nhiêu) vào năm 1965. Đến năm 1975 thì ngưng hoạt động và tháo dỡ hội quán, phần đất này không ai sử dụng nên đất bỏ trống. Đến năm 1992 thì ông A chết và đến năm 1996 ông Trần Văn C (lúc đó là trưởng ấp) có hỏi gia đình bà B một phần đất trống đó có diện tích 52,8m2 (chiều ngang là 4m và chiều dài 13,2m) để xây dựng trụ sở ban ấp nhưng không có quy định thời gian trả lại đất. Trong đó phần diện tích xây dựng ban ấp là 24m2 (ngang 4m và dài 6m) và diện tích trước sân là 28,8m2 (ngang 4m và dài 7,2m). Hai bên thỏa thuận việc cho đất xây dựng ban ấp có làm tờ hiến đất do chồng bà B là ông Võ Văn D đứng tên nhưng không có ký tên nhưng có xác nhận của ban ấp vào mặt sau của tờ hiến đất. Vào 2015 bà B có đơn đòi lại đất. Hỏi trường hợp này UBND xã có trả lại đất cho bà B không ?
 
Nội dung tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Văn phòng Luật sư Gia Đình, trường hợp của bạn chúng tôi xin tư vấn như sau:
Về đất cơ sở tôn giáo, Điều 159 Luật Đất đai 2013 quy định:
“1. Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo.”
Theo đó, nếu muốn hiến đất cho Phật đường thì cần phải thực hiện theo trình tự, thủ tục sau:
- Cơ sở tôn giáo lập dự án mở rộng cơ sở tôn giáo trình cơ quan có thẩm quyền phê đuyệt.
- Người có đất hiến tặng tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước.
- Trên cơ sở dự án mở rộng cơ sở tôn giáo đã được phê duyệt và hồ sơ tự nguyện trả đất để hiến tặng cho cơ sở tôn giáo, Nhà nước sẽ thực hiện thủ tục thu hồi đất của người hiến tặng và giao đất cho cơ sở tôn giáo. Cơ sở tôn giáo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất được giao này.
Theo đó, nếu như ông A đã thực hiện thủ tục hiến đất thì mảnh đất này không còn thuộc quyền sử dụng của ông A nữa, mảnh đất được trả lại cho Nhà nước rồi được Nhà nước giao lại cho cơ sở tôn giáo. Sau khi cơ sở tôn giáo không còn sử dụng nữa, mảnh đất sẽ thuộc quyền quản lý của Nhà nước.
Trong trường hợp UBND xã muốn xây dựng ban ấp trên mảnh đất này thì cần thực hiện thủ tục xin Nhà nước giao đất vì lúc này mảnh đất không thuộc quyền sử dụng của bà B nữa.
Thêm vào đó, Khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai 2013 cũng quy định:
“Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
 
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện nay thì Nhà nước sẽ không giải quyết việc gia đình bà B đòi lại đất đã hiến.
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.

Hình ảnh văn phòng bào chữa