Luật sư tư vấn về phân chia di sản thừa kế ông bà để lại?

1. Tư vấn về phân chia di sản thừa kế ông bà để lại?
Tôi có một vấn đề kính nhờ luật minh gia giúp đỡ: Bố mẹ tôi hiện đang ở trên đất có nguồn gốc do ông bà để lại và ông bà tôi hiện đã mất cách đây hơn 40 năm, gia đình ông bà tôi có 6 người con và đã có gia đình riêng, mảnh đất này bố mẹ tôi đã sinh sống được hơn 30 năm và đã được nhà nước cấp sổ đỏ vào năm 2004.
Năm 2010 các anh em của bố mẹ tôi có ép bố tôi phải cho chú tôi 1 lô đất và bố tôi có viết một tờ giấy tay có chữ ký của bố mẹ tôi và các cô chú về việc cho lô đất (cái này là bị ép buộc chứ không tự nguyện) và giấy này không có công chứng hay chứng thực hay có ai làm chứng. Năm 2014 đất nhà tôi được cấp đổi từ sổ đỏ sang sổ hồng với diện tích tăng từ 400-600m2, đến năm 2016 các cô chú lại yêu cầu bố tôi tiếp tục viết lại giấy tay như lần trước và lần này chỉ có bố tôi ký mà mẹ tôi không ký. Khoảng T7/2017 các cô chú tôi có khởi kiện tại tòa án đòi bố mẹ tôi cắt đất cho chú tôi, tuy nhiên sau nhiều lần hòa giải không thành thì T4/2018 bố tôi qua đời. Nay các cô chú tôi vẫn tiếp tục kiện lên tòa án đòi mẹ tôi phải cắt đất. Vừa rồi tòa án có lập hội đồng thẩm định xuống xem đất của nhà tôi nhưng mẹ tôi không ký. Cho tôi hỏi:
- Với trường hợp này thì giấy tờ viết tay như trên có hợp lệ không?
- Nếu các cô chú tôi kiện đòi chia thừa kế thì có được không?
- Việc đất nhà tôi được cấp sổ mới làm tăng diện tích đất từ 400-600m2 chú tôi cho rằng đã tính luôn phần đất mà đã thỏa thuận cho chú tôi theo giấy tay (tuy nhiên bản chất không phải vậy) và chú tôi yêu cầu tòa án phải đo đạc lại diện tích đất: cho tôi hỏi hiện chú tôi không có quyền gì về thửa đất trên thì có thể yêu cẩu tòa án đo đạc lại hay không? Và gia đình tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Luật sư Gia Đình. Trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
 
Thứ nhất, về giấy tờ viết tay của bố mẹ bạn:
Căn cứ Điều 132 Bộ luật dân sự 2005 và Điều 127 Bộ luật dân sự 2015 quy định Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép như sau:
"Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình."
Theo quy định trên, nếu một bên tham gia giao dịch dân sự mà bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Đối chiếu với trường hợp của bạn, theo thông tin bạn cung cấp nếu có căn cứ chứng minh hai giấy viết tay của bố mẹ bạn là do bị ép buộc mà có thì gia đình bạn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho vô hiệu. Khi đó cô chú bạn không thể căn cứ vào giấy viết tay để yêu cầu gia đình bạn chia đất cho họ.
Thứ hai, về vấn đề phân chia di sản thừa kế:
Theo thông tin bạn cung cấp thì mảnh đất này nguồn gốc của ông bà bạn để lại. Nếu ông bà bạn đã mất và không để lại di chúc thì mảnh đất được coi là di sản thừa kế của ông bà. Tuy nhiên năm 2004 gia đình bạn đã được cấp GCN đối với mảnh đất này, do đó bạn cần làm rõ có căn cứ nào để gia đình bạn được cấp GCN không? (thông qua hợp đồng tặng cho của ông bà, văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế,...). Trường hợp không đủ điêu kiện được cấp GCN thì theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013, Nhà nước có quyền thu hồi GCN đã cấp. Khi đó, những người con của ông bà có thể nộp đơn yêu cầu khởi kiện về quyền thừa kế. Và theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sụ 2015, 6 người con của ông bà mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản bằng nhau (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác).
Căn cứ Điểm a, tiểu mục 2.2, mục 2, phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau:
“a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế".
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.”
Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990:
“4- Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.”
Và Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định thời hiệu thừa kế như sau:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này….”
Theo các quy định trên thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Vì ông bà bạn đã mất cách đây 40 năm (tức là trước ngày công bố Pháp lệnh thừa kế năm 1990), do đó thời điểm mở thừa kế được tính từ năm 1990. Thời hiệu để những người có quyền thừa kế yêu cầu chia di sản của ông bà bạn là 30 năm, tính từ năm 1990. Như vậy, từ năm 1990 đến năm 2018 là 28 năm, vẫn đang trong thời hiệu thừa kế nên cô chú bạn có quyền yêu cầu chia mảnh đất mà ông bà bạn để lại. Vì bố bạn đã mất nên mẹ bạn, bạn cùng anh chị em bạn (nếu có) sẽ thay bố bạn nhận phần di sản mà bố bạn được thừa kế từ ông bà.
Đối với phần diện tích đất tăng lên nếu là tài sản ông bà bạn thì được coi là di sản thừa kế, còn nếu là tài sản do bố mẹ bạn khai hoang, tạo lập, mua bán,… mà có thì cô chú bạn không có quyền đối với phần đất này.
Như vậy, việc chú bạn nộp đơn lên Tòa yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông bà là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật. Trường hợp có tranh chấp về diện tích thừa đất thì chú bạn có thể yêu cầu Tòa án đo đạc và xác định lại diện tích mảnh đất đó.
 
2. Đất làm nhà thờ họ có được chia thừa kế
Câu hỏi:
Tôi đang quản lý sử dụng 1700m2 đất. Nguồn gốc đất là của bố mẹ chồng tôi được ông nội chia cho. Trên mảnh đất này xưa kia đã từng có nhà thờ của họ Nguyễn - một dòng họ có từ hơn 300 năm nay, nhưng các ngôi nhà thờ họ đã bị chiến tranh tàn phá và đã bị dỡ bỏ từ lâu chỉ có ngôi nhà ở do mẹ chồng tôi xây lại vào năm 1983 trên nền ngôi nhà ở cũ của bố mẹ chồng. Cuối năm 1983 khi mẹ chồng tôi mất thì giao lại cho tôi tiếp tục quản lý trông nom nhà cửa. Trong bản đồ địa chính xã năm 1986 và 1993 tôi là người đứng ra kê khai diện tích đất này. Hiện nay trên diện tích đất này ngoài ngôi nhà của mẹ chồng xây năm 1983 còn có ngôi nhà tôi xây cho các con tôi ở, sân gạch và cây cối. Năm 2001 tôi đã đồng ý cho một số người trong dòng họ Nguyễn góp tiền để sửa sang lại ngôi nhà (25 triệu đồng) để dùng làm nơi thờ cúng dòng họ và cho những người thuộc dòng họ Nguyễn đến thắp hương vào ngày cúng giỗ. Nhưng lợi dụng việc này mà năm 2003 có một người cháu của tôi đã đứng lên thu thập chữ ký của một số trưởng chi họ khởi kiện đòi nhà thờ họ và đòi chia thừa kế đất đai của tổ tiên. Vậy như thế nào thì coi là đất của dòng họ? Nếu là đất thờ cúng của dòng họ thì có thể yêu cầu chia thừa kế hay không?
Luật sư Gia Đình trả lời:
Căn cứ khoản 1 phần IV Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước quy định: “Để thực hiện thống nhất quản lý ruộng đất, tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng đất đều phải khai báo chính xác và đăng ký các loại ruộng đất mình sử dụng vào sổ địa chính của Nhà nước. Uỷ ban nhân dân xã phải kiểm tra việc khai báo này”. Theo dữ kiện bà nêu thì diện tích đất này có nguồn gốc từ ông nội của chồng chứ không phải là đất của dòng họ Nguyễn. Sau khi mẹ chồng mất năm 1983 thì do bà quản lý sử dụng. Trong bản đồ địa chính của xã năm 1986 thể hiện bà là người đứng ra kê khai đăng ký việc sử dụng đất. Trong bản đồ địa chính năm 1993 thì bà cũng đứng ra kê khai và đóng tiền sử dụng đất. Do đó bà được xác định là người sử dụng đất chứ không phải dòng họ Nguyễn và dòng họ Nguyễn không uỷ quyền cho bà thay mặt dòng họ kê khai.
Theo dữ kiện bà nêu thì trước kia trên diện tích đất này đã từng có nhà thờ họ Nguyễn nhưng đã không còn hiện nay chỉ có ngôi nhà ở do mẹ chồng xây năm 1983, sau khi mẹ chồng chết thì giao lại cho bà tiếp tục quản lý nên tài sản này thuộc quyền sử dụng của bà. Điều 199 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình, thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình, nhưng không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.
Việc bà dành hai gian của ngôi nhà bà đang ở làm nơi thờ cúng dòng họ Nguyễn là thuộc quyền của chủ sở hữu trong việc sử dụng tài sản của mình.
Căn cứ khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ... đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, được tặng, quyên góp, cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng”. Theo dữ kiện của bà nêu thì không có căn cứ xác định ngôi nhà mà bà hiện nay đang sử dụng hai gian làm nhà thờ dòng họ Nguyễn mà của mẹ chồng xây dựng từ năm 1983 trên diện tích đất được ông nội của chồng chia cho. Năm 2001 bà có đồng ý cho một số người trong họ Nguyễn đóng góp tiền (với số tiền 25 triệu đồng) để tu sửa nhằm mục đích cho họ đến đây cúng giỗ chứ không phải là bà tặng cho ngôi nhà này làm nhà thờ họ Nguyễn. Việc đóng góp tiền tu sửa ngôi nhà của một số người trong họ được coi là đồng sở hữu chung theo phần theo quy định tại khoản 1 Điều 231 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”. Căn cứ khoản 2 Điều này quy định: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Như vậy việc đóng góp để tu sửa ngôi nhà mà bà dành để thờ cúng họ Nguyễn không phải là điều kiện để xác lập quyền sở hữu của dòng họ đối với ngôi nhà này. Những người đóng góp chỉ có quyền sở hữu đối với phần tài sản trị giá 25 triệu đồng mà mình đã đóng góp. Nếu có tranh chấp và có yêu cầu chia tài sản chung theo phần thì sẽ được trả bằng tiền đã đóng góp.
Giả sử diện tích đất bà đang sử dụng là của dòng họ Nguyễn hoặc ngôi nhà thờ là của dòng họ Nguyễn thì căn cứ khoản 2 Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán, vì lợi ích của cộng đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Nên tài sản này thuộc quyền định đoạt và sử dụng của tất cả các thành viên trong dòng họ. Vì vậy người cháu được một số người trong dòng họ uỷ quyền khởi kiện đòi nhà đất của dòng họ là chưa đầy đủ tư cách đại diện của dòng họ.
Căn cứ khoản 3 Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia”. Do đó giả sử diện tích đất và nhà thờ của dòng họ thì cũng không thể chia thừa kế được.
Do vậy, trong vụ kiện này người cháu phải chứng minh tư cách đại diện dòng họ của mình trong việc kiện đòi nhà thờ họ (nếu là nhà thờ của dòng họ) và phải chứng minh diện tích nhà đất mà bà đang sử dụng là tài sản của dòng họ theo quy định tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân sự.
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.

Hình ảnh văn phòng bào chữa