Quyền tranh tụng của bị cáo và người bào chữa trong tố tụng hình sự

Để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoạt động tố tụng hình sự đã có rất nhiều sự thay đổi, trong đó đề cao tính tranh tụng tại phiên tòa xét xử coi đây là khâu trọng yếu của cải cách tư pháp; yêu cầu của cải cách tư pháp đối với hoạt động tố tụng hình sự còn được thể hiện rõ nét trong hai nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị đó là Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02/06/2006.

Nghị quyết 08 đã đưa ra yêu cầu: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng... để ra những bản án quyết định đúng đắn, có sức thuyết phục và có căn cứ pháp luật. Các cơ quan tư pháp có trách tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Nghị quyết 49 cũng đưa ra vấn đề “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử”. Như vậy cả hai văn kiện quan trọng này đều đề cập đến yêu cầu tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự.

Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 được ban hành nhằm thể chế hóa hai nghị quyết nêu trên và được đánh giá là được sửa đổi toàn diện, cơ bản và “có tính đột phá” nhất là vấn đề tranh tụng. Tuy nhiên nếu xét dưới góc độ tăng cường nội dung tranh tụng theo yêu cầu cải cách tư pháp đến thời điểm hiện nay “tính đột phá” vẫn chưa được thể hiện một cách rõ nét cụ thể là: Sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vẫn còn gặp khó khăn, diễn biến tại phiên tòa vẫn còn giống như trước kia (án tại hồ sơ), Hội đồng xét xử thay vì phải làm một vị trọng tài vô tư khách quan nhưng tại phiên tòa Hội đồng xét xử không thể hiện được vai trò của mình (tham gia xét hỏi bị cáo quá nhiều giống như đang buộc tội bị cáo), quyền của bị can, bị cáo, người bào chữa chưa được thực hiện một cách triệt để thể hiện trong các vấn đề sau:

1. Quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự:

* Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa:

Đây là một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất của bị can bị cáo trong tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự tuy mặc dù có quy định quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng thực tế do nhiều nguyên nhân quyền này vẫn chưa thực sự được bảo đảm trên thực tế. Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS thì chỉ có hai trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa đó là: Bị can bị cáo phạm tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình và bị can bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất và tâm thần. Như vậy theo tinh thần của quy định này thì đối với tất cả các trường hợp phạm tội khác, kể cả có bị xử phạt tù chung thân đi chăng nữa thì cũng không nhất thiết phải có người bào chữa. Đây là một vấn đề gây bất cập hay nói đúng ra là gây thiệt thòi rất lớn đến bị can, bị cáo. Chúng ta đều biết rằng trình độ dân trí của người dân hiện nay ở chừng mực nào đó còn rất thấp, những người phạm tội đa phần là những người lao động ít có điều kiện tiếp cận đến pháp luật, những quy định của pháp luật họ chưa am hiểu tường tận thậm chí là không hiểu pháp luật trong khi đó bộ máy các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay của chúng ta (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) có thể nói là rất đồ sộ. Những cán bộ công tác trong các cơ quan này là những người có chuyên môn nghiệp vụ cao, có hệ thống giúp việc đông đảo và được trang bị đầy đủ các trang thiết bị hiện đại. Như vậy sẽ là khập khiễng nếu đem so sánh tương quan lực lượng giữa bị can, bị cáo và những người trong các cơ quan tố tụng, do đó nếu như họ không có sự hỗ trợ từ phía những người có chuyên môn nghiệp vụ mà cụ thể ở đây là luật sư thì họ trở nên quá “đơn độc” và liệu rằng việc những quy định của pháp luật về quyền bào chữa, tranh tụng, tranh luận… có thể thực hiện được một cách đầy đủ và bình đẳng theo đúng qui định? Thêm một vấn đề nữa chúng ta thấy rằng hiện nay quyền nhờ người khác bào chữa mà thực chất là luật sư chỉ định mang lại hiệu quả không cao nếu không muốn nói là không có kết quả. Vì những trường hợp này đa phần các luật sư đều tham gia cho có, làm qua loa chiếu lệ không mặn mà gì cho lắm do thù lao trả cho họ trong những trường hợp này là rất thấp.

* Quyền đưa ra đồ vật tài liệu:

Đây cũng là trong những quyền rất quan trọng của bị can, bị cáo nó giúp cho họ có điều kiện để chứng minh mình vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên những đồ vật, tài liệu mà bị can bị cáo hoặc người bào chữa đưa ra nhằm gỡ tội cho mình lại không được coi là chứng cứ của vụ án. Bởi vì tại Điều 64 BLTTHS đã nói rất rõ: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm chứng cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội….”. Như vậy theo tinh thần của Điều luật thì chỉ có những gì do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập mới được coi là chứng cứ còn bị can bị cáo có quyền đưa ra đồ vật tài liệu nhưng lại không được xem đó là chứng cứ. Bên cạnh đó, luật cũng không quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của bên gỡ tội và cũng không có một cơ chế nào bảo đảm tạo điều kiện cho bị can bị cáo thu thập chứng cứ hoặc coi những đồ vật tài liệu mà họ đưa ra là chứng cứ giống như các chứng cứ mà các cơ quan tố tụng đưa ra. Một vấn đề nữa tuy luật có quy định cho bị can bị cáo có quyền đưa ra các yêu cầu nhưng lại không quy định để thực hiện quyền đó hoặc để bảo đảm rằng các quyền đó của họ đưa ra sẽ được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện một cách nghiêm chỉnh.

* Về quyền được xem, sao chụp hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra:

Người bào chữa được quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong một số trường hợp khác (bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã) người bào chữa được tham gia tố tụng từ giai đoạn tạm giữ, được quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa khi kết thúc điều tra (Điều 58 BLTTHS). Đây là những quyền chỉ dành riêng cho luật sư còn bị can bị cáo thì lại không có những quyền này (Điều 49 và 50 BLTTHS) nếu như vậy chúng ta đặt giả thiết rằng đối với những vụ án không bắt buộc phải có luật sư tham gia bào chữa thì sao? rõ ràng bị can, bị cáo sẽ bị thiệt thòi rất lớn bởi vì nếu như không được xem, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án thì họ làm gì có tài liệu chứng cứ để tranh luận tại phiên tòa.

 2. Quyền của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng:

* Về thủ tục cấp, thu hồi giấy chứng nhận bào chữa:

Như đã phân tích ở trên tranh tụng chỉ có thể được thực hiện đầy đủ và đúng nghĩa của nó khi có luật sư bào chữa tham gia. Pháp luật coi đây là quyền của bị can, bị cáo mà đã gọi là quyền thì các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) đương nhiên phải có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh và bảo đảm chắn chắn rằng bị can, bị cáo được thực hiện quyền này. Tuy nhiên, theo quy định của tố tụng hình sự mà cụ thể là ở các Điều 34, 36, 38 và 39 thì có một sự bất cập khó có thể thực hiện vì các điều luật này quy định thẩm quyền của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, phó chánh án Tòa án…có quyền cấp và thu hồi giấy chứng nhận bào chữa của luật sư. Như vậy, theo quy định này thì vô hình chung người bào chữa muốn được bào chữa hoặc thôi không bào chữa thì phụ thuộc vào quyết định của những người nêu trên chứ không phụ thuộc vào bị can, bị cáo. Một vấn đề nữa cũng theo quy định này thì nếu như một số vụ án do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Bộ đội biên phòng, Hải quan, kiểm lâm…) thực hiện nhiệm vụ điều tra thì ai sẽ là người cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra.

* Về trình tự thủ tục thu thập chứng cứ của người bào chữa:

Điểm d, khoản 2, Điều 58 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền thu thập đồ vật, tài liệu liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị cáo bị cáo, người thân thích của những người này.....Đối với quy định như thế chúng ta thấy rằng vẫn còn chưa đầy đủ và đã thu hẹp phạm vi thu thập chứng cứ của người bào chữa. Bởi vì luật sư họ có thể thu thập chứng cứ ở bất kỳ đâu, bất kỳ đối tượng nào miễn sao không vi phạm các quy định của pháp luật và giúp ít cho việc bào chữa của họ. Một vấn đề nữa cũng cần nói thêm rằng tuy luật quy định quyền của người bào chữa như vậy nhưng vấn đề đặt ra ở đây là cơ chế để đảm bảo những quyền đó được thực hiện như thế nào, như đã nói ở trên các cơ quan tiến hành tố tụng thì có cả một bộ máy giúp việc và được trang bị đầy đủ các trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn còn họ những người bào chữa thì cũng như bị can bị cáo họ chỉ có một mình lại không được thuận lợi trong hoạt động thu thập chứng cứ và nếu như họ muốn thu thập nhưng vì lí do vì đó mà tự họ không thể làm được và có yêu cầu sự trợ giúp của các cơ quan tiến hành tố tụng thì chắn chắn là không được vì luật không quy định vấn đề này.

Bên cạnh đó cũng thấy rằng vấn đề triệu tập người làm chứng thì chỉ là quyền của các cơ quan  tiến hành tố tụng còn người bào chữa thì luật chưa quy định đây cũng là một vấn đề bất cập và thiếu sự bình đẳng trong quá trình tranh tụng. Bởi vì những người làm chứng do phía buộc tội triệu tập đa phần tập trung vào vấn đề “buộc tội” còn những người làm chứng theo yêu cầu của người bào chữa thì chắc chắn rằng sẽ tập trung vào vấn đề “gỡ tội”. Do đó nếu như không được có quyền này thì vô hình chung tại phiên tòa chỉ có duy nhất một bên như vậy thì vấn đề tranh tụng liệu rằng có được bình đẳng và việc xét xử của Tòa án liệu có khách quan và toàn diện được hay không.

3. Chức năng buộc tội và xét xử chưa có sự phân định cụ thể

Sự phân định chức năng buộc tội của Viện kiểm sát và chức năng xét xử của Tòa án là một yêu cầu quan trọng của tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, không thể có sự bình đẳng trong tranh tụng nếu như Tòa án làm cả chức năng buộc tội. Tuy nhiên thực tiễn xét xử các vụ án hình sự chúng ta đều thấy rằng các phiên tòa đều diễn ra theo chiều hướng buộc tội. BLTTHS có rất nhiều Điều luật quy định theo hướng này cụ thể như: Tòa án có trách nhiệm chứng minh tội phạm (Điều 10), Tòa án khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật quy định để xác định và xử lý người phạm tội (Điều 13, 104), Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung khi thấy chứng cứ trong hồ sơ chưa đầy đủ để kết tội bị cáo (Điều 179), Tòa án là chủ thể đầu tiên, chủ động và chủ đạo trong việc xét hỏi bị cáo, người làm chứng, người giám định (Điều 207, 209, 210...), Tòa án có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại nếu cho rằng có vi phạm pháp luật (Điều 275).

Đây là những quy định hết sức bất cập bởi vì chúng ta đều biết rằng Tòa án chỉ có chức năng duy nhất là xét xử không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, Tòa án cũng có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhưng Tòa án thực hiện nhiệm vụ đó thông qua chức năng xét xử của mình. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát), Tòa án chỉ có nghĩa vụ chứng minh trong bản án của mình lý do vì sao chấp nhận quan điểm của bên buộc tội (Viện kiểm sát) khi tuyên bản án kết tội bị cáo mà không chấp nhận quan điểm của bên gỡ tội (người bào chữa) và ngược lại nếu như tuyên bị cáo vô tội. Thêm nữa nếu như trong quá trình xét xử nếu phát hiện bỏ lọt tội phạm thì Tòa án kiến nghị để Viện kiểm sát xem xét việc khởi tố chứ không nên quy định Tòa án có quyền khởi tố vụ án vì đây không phải là chức năng và nghĩa vụ của Tòa án.

Bên cạnh đó chúng ta thấy rằng việc xét hỏi bị cáo, nhân chứng, bị hại... thì nhất thiết và chủ yếu phải do kiểm sát viên và người bào chữa thực hiện, Tòa án chỉ hỏi lại nếu xét thấy họ trả lời chưa rõ ràng chưa làm sáng tỏ được nội dung vụ án nhằm để xác định chính xác các tình tiết vụ án trên cơ sở kết quả thẩm vấn và tranh luận giữa các bên. Xét hỏi chính là cách thức chứng minh bằng các chứng cứ sự tồn tại hoặc không tồn tại của những sự kiện, tình tiết cụ thể của vụ án, chứng minh tội phạm và chứng minh không phạm tội như đã nói ở trên đó là trách nhiệm của bên buộc tội và bên bào chữa. Tòa án không có nghĩa vụ này hay nói nôm na là Tòa án không phải làm chuyện này cho nên Tòa án không tham gia xét hỏi mà phải là bên điều khiển quá trình xét hỏi cũng như các quá trình khác, những câu hỏi của Tòa án trong giai đoạn này chỉ có thể là những câu hỏi mang tính chất thủ tục và khi Tòa án với tư cách là trọng tài vô tư khách quan điều khiển phiên tòa, điều hành tranh tụng giữa các bên và đưa ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng đó thì mới đúng là vai trò trách nhiệm của Tòa án. Tuy nhiên, hiện nay tại các phiên tòa chúng ta đều thấy rằng HĐXX luôn luôn là người hỏi trước, hỏi rất nhiều thậm chí có thể nói là khi hỏi xong thì kiểm sát viên và người bào chữa không còn gì để hỏi nhưng buộc vẫn phải hỏi lại những vấn đề mà HĐXX đã thực hiện và làm như vậy thì lại gây ra tình trạng dài dòng mất thời gian trong giai đoạn thẩm vấn.

          Từ những nhận định nêu trên bản thân tôi xin nêu lên một số đề xuất sửa đổi BLTTHS cụ thể như sau :

          - Mở rộng phạm vi quyền bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị can bị cáo không nên quy định một cách cứng nhắc phải là có mức án đến tử hình mới bắt buộc phải có người bào chữa. Trong điều kiện của ta hiện nay, mặc dù chưa thể quy định 100% các vụ án phải có luật sư bào chữa (số lượng luật sư tính theo mật độ dân số thì còn quá ít, bào chữa viên nhân dân thì hầu như không tồn tại trên thực tế, người đại diện hợp pháp thì chưa được pháp luật quy định cụ thể), nhưng cũng cần  nới rộng phạm vi bào chữa. Ví dụ như đối với các loại tội phạm có mức hình phạt từ nghiêm trọng trở nên (đến 7 năm tù) thì cũng cần nên có người bào chữa. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần xem xét bỏ chế độ luật sư chỉ định mà thay vào đó là ban hành quy định hỗ trợ trả phí thù lao cho luật sư để họ làm việc một cách công tâm và có tinh thần trách nhiệm hơn.

          - Bãi bỏ quy định cấp, thu hồi giấy chứng nhận bào chữa của các cơ quan có thẩm quyền mà cần nên quy định theo hướng nếu như bị can, bị cáo có yêu cầu thì chỉ cần đề nghị cơ quan có liên quan mà cụ thể là trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước cử người bào chữa vì đó là yêu cầu chính đáng của bị can, bị cáo và là quyền của họ mà đã là quyền của họ thì phải do họ quyết định cần hay không cần, không nhất thiết phải qua một giai đoạn trung gian cấp giấy chứng nhận của các cơ quan tố tụng.

          - Mở rộng phạm vi quyền của người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ, đồ vật tài liệu có liên quan đến vụ án và các cơ quan tố tụng phải có trách nhiệm giúp đỡ họ trong việc thu thập và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho họ tác nghiệp như: Quyền được gặp gỡ riêng không giới hạn đối với bị can, bị cáo, được yêu cầu triệu tập người làm chứng…Tuy nhiên, cũng cần quy định thêm trách nhiệm của họ như: Giữ bí mật điều tra, không được xúi giục bị can, bị cáo chối tội, phản cung…

          - Bãi bỏ quy định Tòa án mà cụ thể là hội đồng xét xử có quyền khởi tố vụ án (Điều 104) và sửa đổi Điều 13 BLTTHS theo hướng Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ nghiên cứu hồ sơ ở khía cạnh thủ tục tố tụng có đúng quy định hay không, có đầy đủ điều kiện để đưa ra xét xử hay không. Còn vấn đề thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, lỗi của bị cáo ra sao, có tội hay không có tội, việc truy tố đúng hay sai, phát hiện tội phạm hoặc người phạm tội mới…thì thuộc trách nhiệm của bên buộc tội tức là của Viện kiểm sát.

          - Sửa đổi thủ tục tố tụng tại phiên tòa theo hướng tham gia vào việc xét hỏi chỉ có bên buộc tội và gỡ tội. Như đã nói ở trên chứng minh tội phạm là trách nhiệm của bên buộc tội và chứng minh không phải tội phạm là trách nhiệm của bên gỡ tội. Tòa án phải giữ vai trò là trọng tài vô tư khách quan, điều khiển phiên tòa và đưa ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng không tham gia sâu vào quá trình xét hỏi.

          - Bãi bỏ quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án bởi vì luật quy định thẩm phán có thể trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng luật cũng quy định thêm trong trường hợp Viện kiểm sát không đồng ý những yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn phải tiến hành xét xử. Nếu đã như vậy thì trả hồ sơ để làm gì chỉ mất thời gian, Tòa án chỉ trả hồ sơ điều tra bổ sung khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thụ tục tố tụng và những vi phạm đó gây cản trở cho quá trình xét xử. Còn lại nếu xét thấy các chứng cứ trong hồ sơ cũng như tại phiên tòa không có cơ sở kết tội bị cáo thì Tòa án chỉ cần tuyên bị cáo vô tội.

THẾ ANH        
(VKSND huyện Gò Quao)




LS TRẦN MINH HÙNG

Mẫu giấy yêu cầu luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc

..., ngày ... tháng ... năm ...

GIẤY YÊU CẦU LUẬT SƯ

BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP

Kính gửi: ... 

Căn cứ quyết định số .../.../QĐ- ... ngày .../.../... về việc ...;

Giấy triệu tập phiên tòa số .../GTT-... ngày .../.../...;

Tên tôi là: ... , năm sinh: .../.../...

Địa chỉ thường trú: ...

Nơi ở hiện nay: ...

Giấy CMND số ... cấp ngày .../.../... tại Công an ...;

Điện thoại: ...                                       

Email: ...

Tham dự phiên tòa với tư cách là ..., tôi đồng ý mời luật sư Đỗ Minh Sơn bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp cho mình. 

Vậy, bằng giấy yêu cầu này, tôi đề nghị ………………………………...bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tôi trong phiên tòa xét xử ... tại Toà án nhân dân ... ./.

Trân trọng cảm ơn!

  Người yêu cầu
(Chữ ký, họ tên)
 

Theo vks.kiengiang.gov


Hình ảnh văn phòng bào chữa