Tin tức mới
Như đã trình bày ở trên ta thấy bộ luật quy định rất rõ ràng: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Theo đó, người được hưởng thừa kế thế vị là con của người bố mà nếu còn sống sẽ được hưởng di sản. Nếu không có con thì cháu nội ngoại sẽ được hưởng.
- Đơn xin ly hôn đơn phương
- Giấy đăng ký kết hôn (Bản chính)
- Hộ khẩu (Bản sao)
- Bản sao chứng minh nhân dân của vợ và chồng
- Bản sao giấy khai sinh của con chung (nếu có con)
- Các giấy tờ chứng minh về tài sản và quyền nuôi con
Những rủi ro khi mua nhà chưa hoàn công
Thủ tục hành chính là do nhà nước đặt ra và yêu cầu toàn dân phải chấp hành. Do đó, khi có một trong những hành vi không chấp hành, sẽ xuất hiện rủi ro. Trong giao dịch bất động sản đã có nhà ở, việc quan tâm tới nhà ở đã được hoàn công hay chưa là một trong những yêu cầu cần thiết nhằm tránh rủi ro phát sinh trong giao dịch:
Không thể đăng bộ sang tên: Giao dịch được hoàn tất, bên bán nhận tiền và bàn giao nhà, giấy tờ cho bên mua, bên mua thanh toán đầy đủ cho bên bán; bên mua thực hiện đăng bộ sang tên và bị trả hồ sơ, với lý do:
•Nhà xây dựng trái phép, buộ phải tháo dỡ và bị xử phạt vi phạm hành chính;
•Nhà chưa hoàn công, yêu cầu bên bán thực hiện thủ tục hoàn công.
Lúc này, nếu bên mua đã hoàn tất nghĩa vụ với bên bán thì bên mua như đứng giữa ngã ba đường khi bên bán không chịu hợp tác giải quyết và cơ quan chức năng thì trả hồ sơ yêu cầu thực hiện đúng.
Nhà không đủ điều kiện thực hiện hoàn công: Ngay cả khi bạn được ủy quyền thực hiện hoàn công nhà thì cũng chưa chắc thủ tục này sẽ được thực hiện hoàn tất do điều kiện để thực hiện không đảm bảo, ví dụ: nhà xây sai phép, không đảm bảo phòng cháy chữa cháy, an ninh, môi trường.
Phát sinh tranh chấp: khi chưa thực hiện cập nhật tài sản trên sổ tức là chưa cập nhật thêm giá trị tài sản là nhà ở trên Giấy chứng nhận, nếu chủ thể có quyền chết đi, từ đây phát sinh quan hệ thừa kế và rất dễ dẫn đến tranh chấp nếu chưa sang tên cho bên mua.
Thủ tục hành chính là do nhà nước đặt ra và yêu cầu toàn dân phải chấp hành. Do đó, khi có một trong những hành vi không chấp hành, sẽ xuất hiện rủi ro. Trong giao dịch bất động sản đã có nhà ở, việc quan tâm tới nhà ở đã được hoàn công hay chưa là một trong những yêu cầu cần thiết nhằm tránh rủi ro phát sinh trong giao dịch:
Không thể đăng bộ sang tên: Giao dịch được hoàn tất, bên bán nhận tiền và bàn giao nhà, giấy tờ cho bên mua, bên mua thanh toán đầy đủ cho bên bán; bên mua thực hiện đăng bộ sang tên và bị trả hồ sơ, với lý do:
•Nhà xây dựng trái phép, buộ phải tháo dỡ và bị xử phạt vi phạm hành chính;
•Nhà chưa hoàn công, yêu cầu bên bán thực hiện thủ tục hoàn công.
Lúc này, nếu bên mua đã hoàn tất nghĩa vụ với bên bán thì bên mua như đứng giữa ngã ba đường khi bên bán không chịu hợp tác giải quyết và cơ quan chức năng thì trả hồ sơ yêu cầu thực hiện đúng.
Nhà không đủ điều kiện thực hiện hoàn công: Ngay cả khi bạn được ủy quyền thực hiện hoàn công nhà thì cũng chưa chắc thủ tục này sẽ được thực hiện hoàn tất do điều kiện để thực hiện không đảm bảo, ví dụ: nhà xây sai phép, không đảm bảo phòng cháy chữa cháy, an ninh, môi trường.
Phát sinh tranh chấp: khi chưa thực hiện cập nhật tài sản trên sổ tức là chưa cập nhật thêm giá trị tài sản là nhà ở trên Giấy chứng nhận, nếu chủ thể có quyền chết đi, từ đây phát sinh quan hệ thừa kế và rất dễ dẫn đến tranh chấp nếu chưa sang tên cho bên mua.
Đơn khởi kiện gửi trực tiếp hoặc thông qua đường bưu điện đến Tòa án phải đảm bảo các điều kiện về nội dung và hình thức được quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) 2015.
• Căn cứ khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015, TAND cấp huyện có THẨM QUYỀN giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế.
• Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
• Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành thụ lý vụ án.
• Thẩm phán thông qua các tài liệu chứng cứ các bên giao nộp hoặc tự mình thu thập để nghiên cứu, đưa ra bản án sơ thẩm.
• Nếu các bên không đồng ý với bản án sơ thẩm có thể kháng cáo để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
• Căn cứ khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015, TAND cấp huyện có THẨM QUYỀN giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế.
• Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
• Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành thụ lý vụ án.
• Thẩm phán thông qua các tài liệu chứng cứ các bên giao nộp hoặc tự mình thu thập để nghiên cứu, đưa ra bản án sơ thẩm.
• Nếu các bên không đồng ý với bản án sơ thẩm có thể kháng cáo để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Từ 0 đến 36 tháng tuổi
– Từ 36 tháng tuổi đến 07 tuổi
– Từ 07 tuổi trở lên
+ Đối với người con dưới 36 tháng tuổi thì được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng; trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục.
Thực tế cho thấy ở độ tuổi dưới 36 tháng, người con được giao cho người mẹ nuôi là điều hoàn toàn hợp lý. Xét về mặt sinh lý thì ở độ tuổi này, người con cần người mẹ hơn là cần người bố.
+ Trường hợp người con đủ từ 36 tháng tuổi đến 07 tuổi.
Trường hợp này không được quy định theo pháp luật hiện nay, nhưng thực chất ở độ tuổi này người bố và người mẹ có thể thỏa thuận về vấn đề này. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định giao người con cho một bên nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
+ Người con trên 07 tuổi.
Đây là độ tuổi mà vấn đề giành quyền nuôi con không phụ thuộc hoàn toàn vào các điều kiện của cả người bố và người mẹ như hai trường hợp trên nữa mà lúc này sẽ thuận theo ý nguyện của người con.
– Từ 36 tháng tuổi đến 07 tuổi
– Từ 07 tuổi trở lên
+ Đối với người con dưới 36 tháng tuổi thì được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng; trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục.
Thực tế cho thấy ở độ tuổi dưới 36 tháng, người con được giao cho người mẹ nuôi là điều hoàn toàn hợp lý. Xét về mặt sinh lý thì ở độ tuổi này, người con cần người mẹ hơn là cần người bố.
+ Trường hợp người con đủ từ 36 tháng tuổi đến 07 tuổi.
Trường hợp này không được quy định theo pháp luật hiện nay, nhưng thực chất ở độ tuổi này người bố và người mẹ có thể thỏa thuận về vấn đề này. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định giao người con cho một bên nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
+ Người con trên 07 tuổi.
Đây là độ tuổi mà vấn đề giành quyền nuôi con không phụ thuộc hoàn toàn vào các điều kiện của cả người bố và người mẹ như hai trường hợp trên nữa mà lúc này sẽ thuận theo ý nguyện của người con.
Quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra
Khoản 4 Ðiều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Ðiều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Thứ nhất, về quyền thừa kế của tổ chức
Bộ luật dân sự quy định về quyền thừa kế tại điều 609 như sau:
"Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. -Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc".
Theo như quy định trên thì tổ chức cũng có quyền hưởng di sản theo di chúc. Nếu có một cá nhân lập di chúc định đoạt tài sản của mình để lại di sản cho một tổ chức thì tổ chức đó sẽ trở thành người thừa kế.
Bộ luật dân sự quy định về quyền thừa kế tại điều 609 như sau:
"Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. -Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc".
Theo như quy định trên thì tổ chức cũng có quyền hưởng di sản theo di chúc. Nếu có một cá nhân lập di chúc định đoạt tài sản của mình để lại di sản cho một tổ chức thì tổ chức đó sẽ trở thành người thừa kế.
Tại Khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định:
“... Vợ, chồng hoặc cả hai người có yền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn...”
Do vậy, bạn hoàn toàn có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Theo quy định của pháp luật tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 thì“Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự” và trong trường hợp của bạn “Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn” theo quy định tại Điều 91 Luật này.
Do đó, khi bạn đơn phương ly hôn thì tòa án sẽ tiến hành hòa giải, trong quá trình hòa giải tại tòa án mà chồng bạn không đồng ý ly hôn trong khi bạn vẫn giữ quyết định ly hôn hoặc ngược lại thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải không thành và xem xét, giải quyết việc ly hôn của bạn.
Thứ hai: việc chia tài sản chung của 2 vợ chồng
Việc chia tài sản chung của 2 vợ chồng sẽ tuân theo nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau:
“1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết...
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình...”
“... Vợ, chồng hoặc cả hai người có yền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn...”
Do vậy, bạn hoàn toàn có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Theo quy định của pháp luật tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 thì“Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự” và trong trường hợp của bạn “Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn” theo quy định tại Điều 91 Luật này.
Do đó, khi bạn đơn phương ly hôn thì tòa án sẽ tiến hành hòa giải, trong quá trình hòa giải tại tòa án mà chồng bạn không đồng ý ly hôn trong khi bạn vẫn giữ quyết định ly hôn hoặc ngược lại thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải không thành và xem xét, giải quyết việc ly hôn của bạn.
Thứ hai: việc chia tài sản chung của 2 vợ chồng
Việc chia tài sản chung của 2 vợ chồng sẽ tuân theo nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau:
“1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết...
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình...”
Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự) quy định về tội đánh bạc như sau: "1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. -2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: (a) Có tính chất chuyên nghiệp; (b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên. (c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; (d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Căn cứ theo quy định trên thì mọi hình thức đánh bạc được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án mà chưa được xóa án tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc và có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hình vi phạm tội mà cơ quan có thẩm quyền sẽ có những hình thức xử phạt dựa trên khung hình phạt quy định.
Căn cứ theo quy định trên thì mọi hình thức đánh bạc được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án mà chưa được xóa án tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc và có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hình vi phạm tội mà cơ quan có thẩm quyền sẽ có những hình thức xử phạt dựa trên khung hình phạt quy định.
4. Cho người khác mượn gà đi chơi đá gà thì có phạm tội không?
Quy tắc chung của pháp luật về việc xây dựng nhà và bồi thường khi gây thiệt hại
Tại Điều 174 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng như sau:
“Điều 174. Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng
Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh”.
Và theo Điều 605 bộ luật dân sự 2015 có quy định về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công t rình xây dựng khác gây ra như sau:
“Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
Tại Điều 174 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng như sau:
“Điều 174. Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng
Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh”.
Và theo Điều 605 bộ luật dân sự 2015 có quy định về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công t rình xây dựng khác gây ra như sau:
“Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra