Toà có quyền tuyên hợp đồng vô hiệu khi đương sự không yêu cầu không?

Toà có quyền tuyên hợp đồng vô hiệu khi đương sự không yêu cầu không?

Trong một số vụ án, đương sự không có yêu cầu Toà tuyên hợp đồng vô hiệu, vậy liệu Toà án có thể tự xem xét để tuyên hợp đồng vô hiệu hay không? facebook sharing button

Toà có quyền tuyên hợp đồng vô hiệu khi đương sự không yêu cầu không? Có lẽ đây là câu hỏi mà nhiều người quan tâm khi tham gia các giao dịch dân sự hoặc tranh chấp hợp đồng. Thực tế, không ít trường hợp các bên trong hợp đồng không trực tiếp yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, nhưng trong quá trình giải quyết vụ việc, Tòa án lại có thể đặt ra vấn đề này.

Vậy, Toà có quyền tuyên hợp đồng vô hiệu khi đương sự không yêu cầu không?

1. Thế nào là hợp đồng vô hiệu? 

Hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng được lập mà không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định. Hợp đồng vô hiệu không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia, kể từ thời điểm giao kết. Hay nói cách khác, một khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì nó coi như chưa từng được giao kết, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và bồi thường thiệt hại (nếu có).

Căn cứ theo quy định tại Điều 407 và Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp sau đây: 

  • Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

  • Hợp đồng vô hiệu do giả tạo (hợp đồng được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác) 

  • Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

  • Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập hợp đồng

  • Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép 

  • Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

  • Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

  • Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được

2. Toà có quyền tuyên hợp đồng vô hiệu khi đương sự không yêu cầu không? 

Theo quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 khi hợp đồng được xác lập rơi vào các trường hợp quy định tại các điều liệt kê bên trên bao gồm ( Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện - Điều 125; Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn - Điều 126; Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép - Điều 127; Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình - Điều 128; Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức - Điều 129), thì bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. 

Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng có quy định như sau: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.

Từ những nội dung trên, có thể thấy rằng mặc dù Bộ luật Dân sự đã quy định rõ các căn cứ để một hợp đồng bị coi là vô hiệu, nhưng việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu không phải là quyền đương nhiên được Tòa án áp dụng mà phải gắn liền với yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu độc lập của đương sự. Nguyên tắc này tiếp tục được khẳng định rõ tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, theo đó Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự, không được tự ý mở rộng hoặc đặt ra các vấn đề vượt quá phạm vi đơn khởi kiện. Điều đó cũng có nghĩa là trong trường hợp các bên không yêu cầu Tòa án xem xét tính hiệu lực của hợp đồng thì hợp đồng đó, dù có dấu hiệu vô hiệu, Tòa án cũng không thể tuyên hợp đồng vô hiệu. 

Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt Tòa án có quyền tuyên hợp đồng vô hiệu ngay cả khi không có yêu cầu của đương sự. Điều này được thể hiện tại điểm 7 Mục III Công văn 196/TANDTC-PC 2023 giải đáp trực tuyến vướng mắc trong công tác xét xử. Tại đây để trả lời cho câu hỏi có nội dung như sau: “Trong vụ án tranh chấp Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bên vay trả nợ theo hợp đồng tín dụng, nếu bên vay không trả nợ sẽ yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Các đương sự không yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu. Trường hợp xét thấy hợp đồng thế chấp vô hiệu thì Tòa án có quyền tuyên Hợp đồng thế chấp đó vô hiệu không?” 

Tòa án nhân dân tối cao đã giải đáp rằng đối với vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, bên vay thế chấp tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ nếu bên vay không trả nợ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án phải xem xét hiệu lực của hợp đồng thế chấp tài sản này. Nếu hợp đồng thế chấp tài sản tuân thủ đúng quy định pháp luật thì Tòa án phải công nhận hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực và xử tài sản thế chấp theo quy định pháp luật; nếu hợp đồng thế chấp tài sản vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định pháp luật thì Tòa án phải tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu mà không phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu hay không.

Như vậy, từ nội dung giải đáp của Tòa án nhân dân tối cao có thể thấy rằng trong một số trường hợp nhất định, việc xem xét hiệu lực của hợp đồng là điều kiện bắt buộc để giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án không chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu của đương sự mà còn có quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu nếu hợp đồng đó vi phạm các điều kiện có hiệu lực theo quy định pháp luật. Đây là ngoại lệ quan trọng so với nguyên tắc chung của tố tụng dân sự, phản ánh yêu cầu bảo đảm tính hợp pháp, công bằng, đồng thời bảo vệ trật tự công và lợi ích công cộng.

3. Vụ việc thực tế về việc Toà đã tuyên hợp đồng vô hiệu ngay cả khi đương sự không yêu cầu 

Chiều 30/09/2025, TAND Khu vực 7 - TP HCM đã xét xử vụ kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa VPBank và vợ chồng ông Trần Hồng Sơn (TP. HCM). Nội dung vụ án như sau: 

  • Ngày 5/11/2020: Vợ chồng ông Sơn ký Văn bản thỏa thuận với Công ty Cổ phần Novareal để mua biệt thự song lập tại dự án Tổ hợp khu du lịch Thung lũng Đại Dương (nay là NovaWorld Phan Thiết).

  • Ngày 25/11/2020: Vợ chồng ông Sơn ký hợp đồng tín dụng với VPBank, vay 3,65 tỷ đồng để thanh toán tiền đặt cọc mua biệt thự. Tài sản bảo đảm là quyền tài sản phát sinh từ thỏa thuận mua biệt thự.

  • Từ tháng 12/2022: Vợ chồng ông Sơn ngừng trả nợ. Dư nợ tại thời điểm 30/9 đã vượt 5,32 tỷ đồng.

  • Ngân hàng VPBank đã nhiều lần nhắc nhở nhưng vợ chồng ông Sơn vẫn không trả nợ. VPBank sau đó đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu thanh toán khoản nợ hoặc ngân hàng sẽ được quyền xử lý toàn bộ quyền tài sản của họ phát sinh từ hợp đồng thỏa thuận mua bán biệt thự.

Sau quá trình nghiên cứu hồ sơ và nghị án, Hội đồng xét xử đã bác yêu cầu khởi kiện của VPBank, tuyên hợp đồng tín dụng giữa VPBank và vợ chồng ông Sơn vô hiệu với các lý do sau:

Hội đồng xét xử nhận định rằng khoản vay mà ngân hàng giải ngân cho vợ chồng ông Sơn được sử dụng để thanh toán theo văn bản thỏa thuận ngày 5/11/2020 với Công ty Novareal về việc mua biệt thự song lập. Tài sản bảo đảm là toàn bộ quyền tài sản phát sinh từ văn bản này. Do căn biệt thự là tài sản hình thành trong tương lai, nên trước khi xem xét tính pháp lý của hợp đồng tín dụng, cần phải đánh giá hiệu lực pháp lý của văn bản thỏa thuận mua bán biệt thự. Văn bản thỏa thuận mua biệt thự sau đó đã bị tuyên vô hiệu bởi các lý do sau: 

  • Thứ nhất, chủ đầu tư dự án (Công ty Delta Valley Bình Thuận) không được phép ủy quyền cho Novareal ký hợp đồng đặt cọc liên quan đến nhà ở. 

  • Thứ hai, công ty Novareal, với vai trò là đơn vị tư vấn, môi giới độc quyền, đã vi phạm Luật Kinh doanh bất động sản 2014 khi trực tiếp nhận tiền đặt cọc từ khách hàng. Theo luật, công ty môi giới chỉ được hưởng thù lao môi giới và hoa hồng khi chủ đầu tư ký hợp đồng mua bán. Do đó, nội dung thỏa thuận về tiền đặt cọc, tiến độ thanh toán và cách xử lý tiền đặt cọc là trái quy định pháp luật.

  • Thứ ba, quá trình thẩm định cho thấy ngân hàng không xác định được vị trí khu đất xây biệt thự, chính quyền địa phương không có thông tin về dự án. Đồng thời, trong hồ sơ vụ án không chứng minh được bất động sản hình thành trong tương lai đã được xây xong phần móng. Vì vậy, Hội đồng xét xử kết luận tài sản này thực tế không tồn tại. 

Văn bản thỏa thuận mua biệt thự bị tuyên vô hiệu dẫn đến Hợp đồng tín dụng giữa VPBank và vợ chồng ông Sơn cũng vô hiệu vì: 

  • Số tiền giải ngân từ VPBank được chuyển thẳng vào tài khoản của Công ty Novareal mở tại chính ngân hàng này.

  • Hội đồng xét xử viện dẫn khoản 2 Điều 8 Thông tư 39/2016 của Ngân hàng Nhà nước, quy định tổ chức tín dụng không được cho vay để thanh toán các chi phí, nhu cầu tài chính của các giao dịch, hành vi mà pháp luật cấm.

=>>Do đó, hợp đồng tín dụng giữa VPBank và vợ chồng ông S vô hiệu.

Tóm lại, thông qua cách xử lý của Tòa án trong vụ án này, có thể thấy thực tế Tòa vẫn tiến hành xem xét và tuyên hợp đồng vô hiệu dù đương sự không yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu trong một số trường hợp đặc biệt. Nguyên tắc Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện của đương sự không phải là tuyệt đối nếu pháp luật có quy định đặc biệt hoặc nếu việc tuyên hợp đồng vô hiệu là điều kiện tất yếu để giải quyết đúng bản chất vụ tranh chấp. Trong các tranh chấp có liên quan đến cho vay có bảo đảm – nơi hợp đồng tín dụng gắn liền với tài sản đảm bảo, thì việc xác định hợp đồng bảo đảm có hiệu lực hay không là điều cơ bản và phải được xem xét, kể cả khi đương sự không yêu cầu.
Giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu
Về giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu:
Theo quy định tại Điều 131 BLDS năm 2015, thì khoản 1 là quy định có tính nguyên tắc chung cho việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, đó là: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập”.
Tại khoản 2 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Theo quy định của khoản 2 này thì việc trả lại hiện vật là ưu tiên, không thể trả bằng hiện vật được thì mới trả bằng tiền. Trong thực tế, nhiều khi tài sản không còn nguyên vẹn như khi giao nhưng tài sản chính vẫn còn thì vẫn phải trả, phải nhận và được bổ sung bằng việc thanh toán cho nhau những chi phí hợp lý. Đó là hướng xử lý phù hợp với nguyên tắc quy định ở khoản 1.
Tại khoản 3 quy định: “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Cần lưu ý phân biệt lợi tức với giá trị tăng thêm của tài sản do biến động của thị trường (lợi tức là “khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”). Ví dụ: A bán một ngôi nhà cho B. B. nhận nhà và trả đủ tiền mua nhà 5 tỉ đồng. B cho thuê nhà trong một năm được 150 triệu đồng. Sau một năm, A. và B. xác định hợp đồng mua bán nhà vô hiệu, giá nhà tăng lên là 7 tỉ đồng. Như vậy, lợi tức mà B. được hưởng khi giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là 150 triệu đồng chứ không phải là chênh lệch giá nhà 02 tỉ đồng.
Tại khoản 4 quy định: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, Toà án phải xác định lỗi của các chủ thể, làm căn cứ ấn định mức bồi thường thiệt hại. 
Hiện nay, việc xác định lỗi của các chủ thể khi giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được hướng dẫn tại điểm a.1 Điều 2.4 Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP:
Một bên bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà ở là hợp pháp (ví dụ, bên bán cung cấp thông tin sai làm cho bên mua hiểu nhầm về tư cách chủ thể, nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng nên đã giao kết hợp đồng với bên bán…). Khi hợp đồng được xác định là bị vô hiệu do lỗi của một bên, bên thực hiện hành vi có lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Các bên cùng có lỗi nếu biết rõ việc giao kết hợp đồng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện việc giao kết hợp đồng (ví dụ, các bên cùng cố ý giao kết hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội…). Và cũng theo Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP thì thiệt hại từ hợp đồng vô hiệu còn bao gồm chênh lệch giá tài sản từ thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Từ hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu quy định ở khoản 1 Điều 131 BLDS cho thấy mọi thỏa thuận trong hợp đồng vô hiệu là không có giá trị ràng buộc (trừ các thỏa thuận về biện pháp bảo đảm) nên không thể xác định lỗi căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng. Lỗi được xác định là lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu chứ không phải là lỗi vi phạm hợp đồng.
Thực tế, trong quá trình giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu hiện nay, do quy định tại khoản 1 Điều 131 BLDS chỉ mang tính nguyên tắc, không quy định cụ thể nên các nhà thực thi pháp luật có nhiều ý kiến khác nhau về đường lối giải quyết, nhưng phức tạp nhất vẫn là nhận thức về vấn đề “bên có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại”. Thiệt hại vẫn xác định theo những quy định chung về xác định thiệt hại nhưng từ Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP thì thiệt hại từ giao dịch vô hiệu còn bao gồm chênh lệch giá tài sản từ thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là hợp đồng chính vô hiệu nhưng những thỏa thuận về biện pháp bảo đảm có thể không vô hiệu nên Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP nêu trên đã quy định chỉ khi “không có đặt cọc và các bên không có thỏa thuận khác… thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch…”. Việc xác định lỗi cũng được hướng dẫn cụ thể trong Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP. Từ giá trị pháp lý của giao dịch vô hiệu quy định ở khoản 1 Điều 131 cho thấy mọi thỏa thuận trong hợp đồng là không có giá trị ràng buộc (trừ các thỏa thuận về biện pháp bảo đảm) nên không thể xác định lỗi căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng. Lỗi được xác định là lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu chứ không phải là lỗi vi phạm hợp đồng.
Về phần hậu quả hợp đồng vô hiệu chưa có yêu cầu giải quyết
Theo quy định của pháp luật thì việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, có những vấn đề phát sinh sau khi giao nhận tài sản. Do đó, ngoài việc trả lại tài sản còn phải giải quyết những vấn đề phát sinh là sự thay đổi của tài sản, hoa lợi, lợi tức của tài sản, bồi thường thiệt hại.
Thực tế, pháp luật dân sự hiện hành đang không có quy định bắt buộc phải giải quyết yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu trong cùng một vụ án. Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy có nhận thức khác nhau trong quá trình giải quyết và còn có rất nhiều bản án của cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm huỷ với lý do tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng không đồng thời giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Vì vậy, để giải quyết vướng mắc trên, vừa qua, TAND Tối cao đã có hướng dẫn thực hiện Điều 131 BLDS năm 2015, tại Công văn số 01/2017/GĐ- TANDTC ngày 07/4/2017 của TAND Tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ đã nêu rõ: “…Tòa án phải giải thích cho các đương sự về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, việc giải thích phải được ghi vào biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án...Trường hợp Tòa án đã giải thích nhưng tất cả đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không phải giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu…” và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành Công văn 443/VKSTC-V9 ngày 15/02/2023 giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Trong đó, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao giải đáp vướng mắc về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, cụ thể: liên quan đến vụ việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án không hỏi, không giải thích cho các đương sự biết về hậu quả của hợp đồng vô hiệu mà đến phiên tòa mới hỏi các đương sự có đề nghị giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu không. Các đương sự trả lời không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Tòa án căn cứ vào đó không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là đúng hay sai? Do vậy, trong trường hợp này, việc Tòa án chỉ hỏi mà không giải thích rõ cho các đương sự về hậu quả khi tuyên hợp đồng vô hiệu, không lập biên bản xác định rõ yêu cầu của các đương sự là thiếu sót. Khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên cần yêu cầu Tòa án giải thích rõ cho các đương sự, nếu các đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết thì Tòa án lập biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án mới bảo đảm đúng quy định.
Vậy, để bảo đảm tính khả thi của các quy định của BLDS năm 2015 và tránh việc hiểu không đồng nhất, tuy một số vấn đề đã được giải đáp nhưng chúng tôi cho rằng để thống nhất cách hiểu quy định pháp luật, Toà án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về việc xác định lỗi gây thiệt hại phải bồi thường để tạo sự thống nhất trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng. Đối với trường hợp hợp đồng bị vô hiệu do lỗi của các bên, cần xác định mức độ lỗi làm căn cứ ấn định mức bồi thường. Nếu các bên cùng có lỗi tương đương nhau, thì mỗi bên chịu trách nhiệm bồi thường 1/2 thiệt hại; nếu mức độ lỗi của các bên không tương đương nhau thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của các bên.
 


Hình ảnh văn phòng bào chữa