Tội sử dụng ma túy bị xử phạt thế nào? tình tiết giảm nhẹ thế nào?

Lần đầu sử dụng ma túy bị xử lý thế nào?

 

Sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, người sử dụng trái phép chất ma túy có thể bị xử lý theo quy định pháp luật. Vậy, người lần đầu sử dụng ma túy bị xử lý thế nào?

1. Sử dụng ma túy là gì?

Theo Thông tư liên tịch số 17/2017, chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành. Sử dụng ma túy là hành vi tự mình hoặc nhờ người khác đưa các chất gây nghiện vào trong cơ thể dưới mọi hình thức: Hút, hít, tiêm, chích, uống…

Một người sử dụng ma túy nhiều lần để thỏa mãn nhu cầu của bản thân được xác định là người nghiện ma túy, khi đó sẽ phải chịu các chế tài xử phạt tương ứng với mức độ thực hiện hành vi.

2. Người sử dụng ma túy lần đầu có bị đi tù không?

Hiện nay, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 không còn quy định về Tội sử dụng trái phép chất ma túy, do vậy, người sử dụng ma túy không được coi là tội phạm.

 

Tuy nhiên, sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, vì thế người thực hiện hành vi này có thể bị xử phạt hành chính theo quy định pháp luật.

Cụ thể, theo quy định tại Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, người nào sử dụng trái phép chất ma túy sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 01 - 02 triệu đồng, ngoài ra còn bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.

Tóm lại, sử dụng ma túy không phải là hành vi phạm tội, do đó người sử dụng ma túy sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự (gồm cả trường hợp sử dụng ma túy lần đầu).

3. Người sử dụng ma túy lần đầu bị quản lý thế nào?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật Phòng, chống ma túy 2021, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là biện pháp phòng ngừa nhằm giúp người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.

 

Theo Điều 38 Nghị định 105/2021, một người có dấu hiệu sử dụng trái phép chất ma túy khi có một trong các căn cứ sau:

- Tin báo, tố giác của cá nhân, cơ quan, tổ chức đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh, làm rõ;

- Thông tin, tài liệu trong các vụ vi phạm pháp luật;

- Người có biểu hiện mất năng lực nhận thức hoặc kiểm soát hành vi nghi do sử dụng ma túy;

- Trên người, phương tiện, nơi ở của người đó có dấu vết của chất ma túy hoặc dụng cụ, phương tiện sử dụng trái phép chất ma túy…

Khi phát hiện một người có dấu hiệu sử dụng trái phép chất ma túy, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành xét nghiệm ma túy với những người này.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú ổn định hoặc nơi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ra quyết định và tổ chức quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

Thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định quản lý.

Trong thời hạn quản lý, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy trong các trường hợp:

- Người sử dụng trái phép chất ma túy được xác định là người nghiện ma túy;

- Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

- Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng;…

Tóm lại: Người sử dụng ma túy lần đầu không được xác định là tội phạm do đó sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định trên và bị quản lý trong vòng 01 năm.

Một số nội dung đáng chú ý:

Cụ thể, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau:

- Trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó phải có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong đó có tình tiết vừa là tình tiết định khung, vừa là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì áp dụng như sau:

+ Trường hợp tình tiết định khung đồng thời là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự mà không cùng một khoản định khung của điều luật thì áp dụng tình tiết định khung cao nhất và các tình tiết còn lại không coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

+ Trường hợp tình tiết định khung đồng thời là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự mà trong cùng một khoản định khung của điều luật thì chỉ áp dụng 01 tình tiết định khung và các tình tiết còn lại không coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

+ Trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết định khung hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, số lượng tình tiết định khung, số lượng tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt.

- Đối với trường hợp phạm tội từ 05 lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng các tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiêm”) và “có tính chất chuyên nghiệp”.

- Trường hợp khi bị bắt, người phạm tội không chỉ khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội đã bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện mà họ còn tự thú khai báo hành vi phạm tội của họ trước đó, chưa bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện thì cần áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo” và “người phạm tội tự thú” .

- Trường hợp người phạm tội trước đó đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm 02 tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì phải áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” đối với cả 02 tội.

Nếu điều luật quy định “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt, thì áp dụng là tình tiết định khung hình phạt, nếu điều luật không quy định “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt, thì áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự…
Trân trọng.


LS TRẦN MINH HÙNG