Luật sư tranh tụng Nên lập di chúc hay lập hợp đồng tặng cho tài sản?

1. Có được đổi ý khi đã từ chối nhận di sản thừa kế không?
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc pháp luật. Vậy nếu đã từ chối thì có được đổi ý để nhận thừa kế nữa không?
 
Có được từ chối nhận thừa kế không?
Theo Điều 610 Bộ luật Dân sự mới nhất, người thừa kế có quyền nhận phần di sản thuộc về mình theo di chúc hoặc theo pháp luật; có quyền từ chối nhận di sản mà mình được hưởng.
Tuy nhiên, cũng tại Bộ luật nêu trên, dù có quyền từ chối nhận di sản nhưng việc từ chối này phải không nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Bởi, những người hưởng thừa kế phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Do đó, cá nhân sẽ không được từ chối nhận di sản thừa kế mà người khác để lại nếu việc từ chối này nhằm trốn tránh không thực hiện một số nghĩa vụ tài sản như trả nợ, bồi thường thiệt hại, nộp thuế… của người chết.
 
Khi nào từ chối nhận di sản không có hiệu lực?
Trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định thời gian để một người từ chối nhận thừa kế là 06 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Nhưng kể từ khi Bộ luật Dân sự mới có hiệu lực năm 2017, quy định này đã bị bãi bỏ.
Thay vào đó, việc từ chối phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết và bắt buộc phải thể hiện trước thời điểm phân chia di sản. Đồng thời, pháp luật cũng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực văn bản này (Điều 59 Luật Công chứng hiện nay).
Như vậy, trong trường hợp đã lập văn bản từ chối nhận di sản và gửi cho các đồng thừa kế, người quản lý di sản và người phân chia thừa kế biết thì việc từ chối đã có hiệu lực pháp luật. Ngược lại, việc từ chối di sản thừa kế chỉ không có hiệu lực pháp luật trong các trường hợp:
- Từ chối được thể hiện sau thời điểm phân chia di sản;
- Từ chối nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình với người khác;
- Chưa được lập thành văn bản;
- Chưa gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản thừa kế;
- Do người không được hưởng di sản thừa kế thực hiện…
Nói tóm lại, nếu trong những trường hợp nêu trên thì việc từ chối sẽ không có hiệu lực pháp luật và người thừa kế vẫn được tham gia thỏa thuận phân chia di sản.
 
2. Nên lập di chúc hay nên lập hợp đồng tặng cho tài sản?
1. Quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 624 Bộ luật dân sự năm 2015, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển quyền tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Như vậy, về bản chất, việc lập di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người để lại di sản. Theo đó, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Thứ hai, người lập di chúc phải là người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Trong trường hợp nếu người lập di chúc là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Người lập di chúc có các quyền được pháp luật quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2015như sau:
– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
– Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Thứ ba, về hình thức của di chúc: Theo quy định tại Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2015, di chúc có thể được lập dưới hai hình thức như sau:
Một là, di chúc miệng trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản.
Hai là, di chúc bằng văn bản dưới các dạng như:
– Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.
– Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc
– Di chúc bằng văn bản được lập tại văn phòng công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo thủ tục sau:
– Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
– Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Thứ tư, về hiệu lực của di chúc: Theo quy định tại Điều 643 Bộ luật dân sự năm 2015 di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên cần lưu ý:
Một là, di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
Hai là, di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
Ba là, nếu trong trường hợp một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
2. Quy định về hợp đồng tặng cho theo pháp luật hiện hành
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 457 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Như vậy, về bản chất, tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, điều này hoàn toàn khác với di chúc.
Thứ hai, về chủ thể trong hợp đồng tặng cho: Bên tặng cho và bên nhận tặng cho phải đáp ứng đủ điều được thực hiện giao dịch dân sự theo quy định
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng tặng cho: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 459 Bộ luật dân sự năm 2015 hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật
Thứ tư, về hiệu lực của hợp đồng tặng cho
Một là, đối với tài sản được tặng cho là động sản thì hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
Hai là, đối với tài sản được tặng cho là bất động sản thì văn bản tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.
Thứ năm, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tặng cho
Một là, trong trường hợp bên tặng cho cố ý tặng cho tài sản không thuộc sở hữu của mình mà bên được tặng cho không biết hoặc không thể biết về việc đó thì bên tặng cho phải thanh toán chi phí để làm tăng giá trị của tài sản cho bên được tặng cho khi chủ sở hữu lấy lại tài sản.
Hai là, bên tặng cho có nghĩa vụ thông báo cho bên được tặng cho khuyết tật của tài sản tặng cho. Trường hợp bên tặng cho biết tài sản có khuyết tật mà không thông báo thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra cho người được tặng cho; nếu bên tặng cho không biết về khuyết tật của tài sản tặng cho thì không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ba là, trong trường hợp tặng cho tài sản có điều kiện thì phải đảm bảo thực hiện theo quy định tại Điều 462 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
– Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
– Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
 
3. Vấn đề lựa chọn hình thức tặng cho tài sản hay lập di chúc để lại tài sản cho người khác
Như ở trên đã đề cập, có thể thấy được rằng, mặc dù hợp đồng tặng cho hay di chúc đều là hình thức chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người khác. Tuy nhiên, xét về bản chất thì hai hình thức này lại khác nhau hoàn toàn, cụ thể:
– Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có tài sản chết. Tính từ thời điểm đó, người có quyền thừa kế mới có quyền và nghĩa vụ đối với tài sản này
– Hợp đồng tặng cho phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm tặng cho tài sản, khi hợp đồng tặng cho được pháp luật công nhận (nếu tài sản là bất động sản thì kể từ thời điểm người được tặng cho đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Như vậy, quyền của người tặng cho sẽ chấm dứt tại thời điểm đó.
Như vậy, việc lựa chọn của cá nhân có tài sản trong việc chuyển giao tài sản của mình cho người khác thông qua hợp đồng tặng cho hay di chúc còn tùy thuộc vào mục đích, khả năng và mong muốn của người có tài sản. Chẳng hạn:
– Nếu một người muốn để lại tài sản của mình cho người khác sau khi bản thân chết thì lựa chọn hình thức lập di chúc.
– Nếu muốn tặng cho, chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác ngay khi đang còn sống thì lựa chọn hình thức lập hợp đồng tặng cho.
3. Con gái có được chia di sản thừa kế theo pháp luật không?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào Luật sư Gia Đình. Chúng tôi có 5 người gồm 2 người con trai, 3 con gái, mẹ tôi có một người con gái riêng khác cha. Cha tôi mất năm 2002, mẹ tôi mất sau đó 2 năm 2004 không có di chúc phân chia tài sản, tài sản là một mảnh vườn rộng 1647 m2 có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cha tôi, một ngôi nhà cấp 4 và cây ăn quả trong vườn. Sau khi cha mẹ tôi mất do điều kiện công tác xa nhà nên mọi tài sản trên đất đều do anh tôi quản lí và sử dụng; đến năm 2012 anh trai tôi tự ý xây dựng nhà ngay trước mặt ngôi nhà của cha mẹ tôi và các công trình trên đất mà không hỏi ý kiến của anh em trong gia đình nên việc xây dựng chúng tôi không biết, đến năm 2015 chúng họp gia đình bàn chia đất thành 5 phần nhưng anh trai không đồng ý, chỉ đồng ý chia cho 2 anh em trai, sau đó chúng tôi làm đơn nhờ chính quyền giải quyết hòa giải nhưng không thành từ đó đến nay gần 3 năm. Xin hỏi luật sư hiện nay chúng tôi làm đơn đề nghị tòa án huyện giải quyết có được không? Nếu tòa án giải quyết thì chúng tôi có đảm được bảo quyền lợi không? Trình tự thủ tục trình lên tòa án như thế nào? Mong luật sư tư vấn, xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Văn Phòng Luật Sư Gia Đình. Với thắc mắc của bạn, chúng tôi đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
+ Bộ luật dân sự 1995
+ Bộ luật tố tụng dân sự 2015
2. Giải quyết vấn đề
Theo thông tin bạn cung cấp, cha bạn và mẹ bạn mất lần lượt năm 2002 và năm 2004, nên việc chia thừa kế trong trường hợp này sẽ được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995, theo đó, khi cha và mẹ bạn bạn mất không có để lại di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế theo quy định của Điều 679 Bộ luật Dân sự 1995 như sau:
“Điều 679. Người thừa kế theo pháp luật
1- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
2- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.”
Theo thông tin bạn cung cấp, ba bạn có một mảnh vườn mang tên cha bạn, ngôi nhà và cây ăn quả trong vường, năm 2002 cha bạn mất, nếu không để lại di chúc, thì phần di sản nêu trên ( trong trường hợp tất cả di sản trên đều được xác định là tài sản của ba bạn lúc còn sống) hoặc phần di sản trong khối tài sản nêu trên ( nếu phần tài sản trên được xác định là sở hữu chung của ba bạn với mẹ bạn hoặc những người khác) sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm có: ông bà nội của bạn, mẹ bạn và con ruột, nếu người con riêng của mẹ bạn có chăm sóc, nuôi dưỡng cha bạn thì vẫn được chia di sản thừa kế.
Năm 2004, mẹ bạn mất đi, không để lại di chúc nên phần di sản của mẹ bạn cũng sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, trong đó có các người con, ông bà ngoại của bạn ( nếu còn sống).
Như vậy, việc anh trai bạn tự ý chiếm di sản thừa kế về phần mình là không có căn cứ, sau khi họp bàn gia đình về vấn đề phân chia di sản thừa kế nhưng không được sự đồng thuận tất cả ý kiến. Trong trường hợp này, bạn hoặc những người thừa kế khác có quyền gửi đơn khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế đến Tòa án để yêu cầu giải quyết.
Hồ sơ khởi kiện chia di sản thừa kế theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:
+ Đơn khởi kiện (theo mẫu)
+ Các giấy tờ về quan hệ giữa người khởi kiện và người để lại tài sản: Giấy khai sinh, Chứng minh thư nhân dân, giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu, giấy giao nhận nuôi con nuôi để xác định diện và hàng thừa kế;
+ Giấy chứng tử của người để lại di sản thừa kế;
+ Bản kê khai các di sản;
+ Các giấy tờ, tài liệu chứng minh sở hữu của người để lại di sản và nguồn gốc di sản của người để lại di sản;
+ Các giấy tờ khác: biên bản giải quyết tại UBND xã, phường, thị trấn (nếu có), tờ khai từ chối nhận di sản (Nếu có).
Sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét những tài liệu, chứng cứ cần thiết, nếu xét thấy thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án sẽ thông báo cho bạn biết để đương sự nộp tiền tạm ứng án phí và sau khi nộp tiền tạm ứng án phí, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết tranh chấp.
 
4. Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ?
Thưa luật sư, xin Luật sư cho em hỏi: bà ngoại em sinh được một mình mẹ em, còn ông ngoại em thì đi với người khác có hai người con một trai và một gái, nhưng không có đăng ký kết hôn. Ông em mất đi để lại mảnh đất 1500 m2.
Cho em hỏi: đất này có phải chia cho hai người con riêng của ông không ?
Em xin cảm ơn!
Trả lời:
Theo như thông tin bạn cung cấp, chúng tôi tư vấn như sau:
Thứ nhất, ông bạn mất để lại di chúc, trong trường hợp này, sẽ căn cứ vào nội dung của di chúc, nếu di chúc hợp pháp, đúng quy định của pháp luật để phân chia di sản thừa kế của ông bạn theo quy định tại Chương XXII Bộ luật dân sự 2015.
Thứ hai, ông bạn mất, không để lại di chúc, theo đó mảnh đất 1500 m2 sẽ được chia theo pháp luật theo Chương XXIII Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể:
"Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."
Như vậy, hai người con riêng của ông bạn được xem là con ruột của ông, nếu họ chứng minh được có quan hệ huyết thống với ông bạn thì họ đương nhiên thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bạn. Do đó, đất này phải chia cho cả hai người con riêng của ông bạn. Trong trường hợp, hai người con riêng không chứng minh được có quan hệ huyết thống với ông bạn thì họ sẽ không được hưởng thừa kế.
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
 
 

Hình ảnh văn phòng bào chữa