Thế nào là lừa đảo thế nào là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?

Việc phân biệt giữa Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là chìa khóa để định tội danh một cách chính xác, đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật, tránh điều tra, truy tố, xét xử sai tội danh. Bản chất hành vi, thủ đoạn thực hiện và thời điểm phát sinh ý định chiếm đoạt tài sản lại có sự khác biệt cơ bản và sâu sắc. Sự nhầm lẫn giữa hai tội danh này trong thực tiễn xét xử không phải là hiếm, đòi hỏi một sự phân tích chuyên sâu và chính xác về các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm. Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có tính chất chiếm đoạt tài sản, cơ quan tiến hành tố tụng thường nhầm lẫn trong việc định tội danh do dấu hiệu pháp lý đặc trưng của những tội phạm này có điểm tương đồng. Việc phân biệt loại tội phạm này cần căn cứ vào chủ thể tội phạm; động cơ, mục đích của người phạm tội và điều kiện thực tế để đánh giá.
Giữa Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, 2025) thì dấu hiệu dễ bị nhầm lẫn là thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
Cả hai tội này đều có dấu hiệu chung là người phạm tội phải có hành vi “chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là chiếm đoạt thì rất phức tạp. Hiện nay có tình trạng vay, mượn trong nhân dân hoặc có những hợp đồng vay của ngân hàng với số tiền rất lớn lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng, nhưng mỗi nơi xử lý một cách khác nhau. Có nơi coi đó chỉ là quan hệ dân sự hoặc quan hệ kinh tế, có nơi truy tố về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, có nơi truy tố về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chỉ khi nào xác định có chiếm đoạt thì lúc đó mới là tội phạm. Nếu đã xác định có chiếm đoạt tài sản thì việc phân biệt giữa hai tội phạm này chính là thủ đoạn gian dối có trước hay sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản của người khác.
Nếu hành vi gian dối xảy ra trước khi vay, mượn rồi sau đó chiếm đoạt tài sản của người cho vay thì phải coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn nếu hành vi gian dối xảy ra sau khi người phạm tội đã có tài sản một cách hợp pháp thì chỉ coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cứ có hành vi gian dối trước khi có tài sản thì đều là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà phải xác định họ có mục đích chiếm đoạt tài sản hay không.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015, thì hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là việc “người vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó”. Vậy thế nào là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản? Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng rất lúng túng, nhưng đến nay vẫn chưa có hướng dẫn.
Đa số các chuyên gia cho rằng, “bỏ trốn” quy định tại Điều 140 BLHS năm 2015 không nhất thiết phải là trốn khỏi địa phương, cũng không cần Cơ quan điều tra phải truy nã, mà chỉ trốn tránh chủ nợ như: Bỏ ra khỏi nhà, không nghe điện thoại, không trả lời tin nhắn, thay số điện thoại, thay đổi chỗ ở mà không thông báo cho chủ nợ biết… miễn sao tránh mặt được chủ nợ.
Đối với trường hợp vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Vấn đề sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp cũng có ý kiến khác nhau.
Điều 175 BLHS năm 2015 còn quy định: “Đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”.
Trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản chiếm một tỷ lệ đáng kể, và việc phân định ranh giới pháp lý giữa các tội danh tương đồng là một thách thức lớn trong thực tiễn xét xử. Hai trong số những tội danh thường xuyên gây nhầm lẫn nhất là Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản  của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, 2025. Mặc dù cùng có hành vi chiếm đoạt tài sản và lỗi cố ý, các dấu hiệu đặc trưng về thủ đoạn và thời điểm phát sinh ý định lại tạo nên sự khác biệt cốt lõi, quyết định việc định tội danh và khung hình phạt.
Để phân biệt hai tội danh, việc nắm vững cấu thành tội phạm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng là nền tảng. Cả hai tội danh đều xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu tài sản và chủ thể là bất kỳ cá nhân nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở mặt khách quan và đặc biệt là mặt chủ quan của tội phạm.  
1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2025)
Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025). Theo đó, tội danh này cấu thành khi "người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác". 
Về mặt khách quan, dấu hiệu đặc trưng nhất là thủ đoạn gian dối. Đây là hành vi đưa ra những thông tin sai lệch, không đúng sự thật hoặc che giấu sự thật nhằm làm cho người bị hại tin tưởng và tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối này có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, bao gồm lời nói, chữ viết (ví dụ: giả mạo giấy tờ, hợp đồng), hành động. Hậu quả của hành vi gian dối này là việc nạn nhân tự nguyện giao tài sản, nhưng sự tự nguyện này không xuất phát từ ý chí đúng đắn mà do bị đánh lừa.  
Về mặt chủ quan, tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc phải có. Điểm cốt lõi nhất để phân biệt là  thời điểm nảy sinh ý định chiếm đoạt. Ý định chiếm đoạt tài sản của người phạm tội phải có từ trước hoặc tại thời điểm thực hiện thủ đoạn gian dối, tức là trước khi nạn nhân giao tài sản. Thủ đoạn gian dối chính là công cụ để người phạm tội đạt được mục đích chiếm đoạt đã có sẵn trong đầu.  
2. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2025)
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, 2025). Tội danh này cấu thành khi người phạm tội thực hiện một trong hai hành vi sau: vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, sau đó dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản, hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại.  
Về mặt khách quan, bản chất của giao dịch ban đầu là hợp pháp. Người phạm tội nhận được tài sản một cách hợp pháp thông qua một giao dịch dân sự, kinh tế như hợp đồng vay, mượn, thuê. Hành vi chiếm đoạt xảy ra sau đó, biểu hiện qua việc người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối sau khi đã có tài sản (ví dụ: gian dối để trì hoãn việc trả nợ), hoặc bỏ trốn, hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không thể trả lại tài sản khi đến hạn.  
Về mặt chủ quan, tội này cũng được thực hiện với lỗi cố ý. Tuy nhiên, điểm khác biệt quyết định là ý định chiếm đoạt tài sản chỉ nảy sinh sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản một cách hợp pháp. Tức là, tại thời điểm giao dịch ban đầu, người phạm tội có thể không có ý định chiếm đoạt. Chỉ sau khi đã có tài sản, ý định này mới phát sinh, và hành vi gian dối (nếu có) được sử dụng để che đậy mục đích chiếm đoạt đó.  
3. So sánh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Giống nhau:
+ Khách thể: Đều xâm phạm vào khách thể là quan hệ sở hữu đối với tài sản; đối tượng tác động của hai tội phạm đều là tài sản.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu do vậy khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài sản đây là quan hệ xã hội chủ yếu bị hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại, do đặc điểm của tội phạm này là chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản. Quan hệ sở hữu là quan hệ trong đó người sở hữu tài sản có quyền chiếm hữu sử cung và định đoạt tài sản và phải được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Cá nhân, tổ chức xâm phạm trù phép đến quan hệ này sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đối tương tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản bao gồm : vật , tiền giấy tờ có ga và các quyền tại sản.
+ Mặt khách quan: Đều được thực hiện dưới hình thức hành động phạm tội, đều có thủ đoạn gian dốỉ. Cả hai tội phạm đều có cấu thành vật chất, dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
+ Mặt chủ quan: Đều được thực hiện do lỗi cố ý, mục đích chiếm đoạt tài sản.
+ Chủ thể: Đều thực hiện bồi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.
- Khác nhau:
+ Hành vi:
Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015: Thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin không đúng sự thật, làm cho chủ tài sản “tin giả là thật” mà “trao tài sản”. Tội phạm này phải có hành vi gian dối trước thì mới có tài sản.
Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015: Có trường hợp dùng thủ đoạn gian dối có trường hợp không nhưng bao giờ cũng diễn ra khi đã có tài sản trong tay thông qua một giao dịch dân sự (vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản bằng các hình thức hợp đồng)...
+ Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt:
Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015: từ 2.000.000 đồng trở lên.
Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015: từ 4.000.000 đồng trở lên.
So sánh ngắn tổng quát 2 tội danh:
Tiêu chí Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Cơ sở pháp lý Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, 2025
Đối tượng Tài sản bị chiếm đoạt do người khác quản lý, có thể là tài sản của Nhà nước Tài sản bị chiếm đoạt do chính người phạm tội quản lý
Tính chất Thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt phải diễn ra từ trước Sau khi được giao tài sản (hợp pháp) mới phát sinh hành vi chiếm đoạt.
Hành vi Thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng:
- Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
- Đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản
Giá trị tài sản để định tội - Trên 02 triệu đồng
- Dưới 02 triệu đồng, thuộc các trường hợp:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 Bộ luật Hình sự chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
- Trên 04 triệu đồng
- Dưới 04 triệu đồng, thuộc các trường hợp:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
Hình phạt - Khung hình phạt cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Mức phạt tối đa: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Khung hình phạt cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
- Mức phạt tối đa: thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
4. Vì sao cần phân biệt rõ hai tội danh?
Việc định danh đúng tội có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng:
Bảo đảm công bằng khi truy cứu trách nhiệm hình sự
Tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm
Giúp người bị hại bảo vệ quyền lợi hợp pháp và đòi lại tài sản hiệu quả
Bảo đảm tuân thủ pháp luật trong khởi tố, truy tố, xét xử.

LS TRẦN MINH HÙNG

Hình ảnh văn phòng bào chữa