Luật sư tư vấn chia di sản thừa kế khi đã hết thời hiệu khởi kiện

1.Đòi di sản thừa kế từ người chiếm hữu bất hợp pháp
 
Đất đai do bố mẹ qua đời để lại, người được giao trông nom tự ý làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liệu có đòi lại được và việc chia thừa kế sẽ được thực hiện như thế nào khi người để lại di sản không để lại di chúc?
Câu hỏi:
Sự việc của gia đình tôi như sau:
Bố mẹ tôi là ông N.D.P (mất năm 1946), mẹ tôi là bà P.T.N (mất năm 1965). Khi qua đời không để lại di chúc, di sản thừa kế là mảnh đất được xác lập bằng khoán điền thổ từ tời Pháp thuộc. Chúng tôi gồm 05 người con: N.V.P (qua đời năm 1990); N.D.L(qua đời năm 2010); N.T.G (sinh năm 1937); N.D.B (sinh năm 1942); N.D.T (sinh năm 1944).
Khi bố mẹ tôi qua đời do các anh em đều lập gia đình và đi làm ăn xa. 5 anh em thống nhất tạm giao cho cụ N.T.B (người giúp việc của gia đình) trông coi mảnh đất để hàng năm anh em về hương khói cho các cụ.
Đến năm 1990 không rõ vì nguyên nhân gì cụ N.T.B lại được cấp sổ đỏ trên phần đất là di sản thừa kế của bố mẹ tôi để lại.
Năm 2005 Cụ N.T.B có làm đơn xin trao trả lại đất có cả chữ ký của ba người con nhưng vẫn chưa được UBND giải quyết.
Năm 2014 Cụ N.T.B qua đời.
Năm 2020, con cụ N.T.B là bà P.T.V bất ngời làm thủ tục kê khai di sản thừa kế của cụ N.T.B không chịu trả lại phần di sản của bố mẹ tôi.
Hỏi trường hợp này gia đình chúng tôi có thể làm gì?
Trân trọng cảm ơn./.
 
Luật sư Gia Đình trả lời:
 
1. Cơ sở pháp lý:
- Bộ luật Dân sự 2015;
- Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP.
2. Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thừa kế theo pháp luật như sau:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Như vậy, đối với trường hợp người để lại di sản qua đời mà không để lại di chúc thì việc chia thừa kế sẽ được thực hiện theo pháp luật. Cụ thể là chia theo hàng thừa kế theo thứ tự hàng thứ 1, hàng thứ 2, hàng thứ 3. Nếu hàng thứ 1 không còn ai sẽ thực hiện chia đến hàng thứ 2 và nếu hàng thứ 2 không còn ai sẽ thực hiện chia đến hàng thứ 3.
Theo thông tin anh cung cấp 1 phần di sản thừa kế đang nằm ở thừ 193 mang tên cụ N.T.B đã bị cấp sổ sai từ năm 1990 sau đó có làm đơn trả lại đất nhưng chưa thực hiện xong thì cụ N.T.B qua đời. Hiện tại bà P.T.V đang muốn làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế.
Căn cứ Điều 612 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Di sản như sau
“Điều 612. Di sản
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Đồng thời căn cứ Điểm Điểm b mục 2.4 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định như sau:
“b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”.
Như vậy, trong trường hợp này nếu di sản để lại đang bị chiếm hữu sử dụng trái phép, hoặc cấp GCNQSDĐ không đúng theo quy định pháp luật thì hàng thừa kế có quyền khởi kiện đòi lại di sản, đồng thời yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đó.
Hiện nay đã có biên bản làm việc ngày 11 tháng 11 năm 2020 của UBND xã Đ. Theo đó các bên không thống nhất được phương án giải quyết do đó hiện nay bên gia đình sẽ phải tiến hành khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết vì lý do có liên quan đến yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
 
2. Chia di sản thừa kế khi đã hết thời hiệu khởi kiện
Câu hỏi: Gia đình tôi đang muốn phân chia quyền sử dụng do bố mẹ chúng tôi để lại, mẹ tôi chết năm 1977, bố tôi chết năm 1998 không để lại di chúc. Bố mẹ chúng tôi chỉ sinh được 08 người con, trong đó môt bà chị đã chết năm 1945 ( lúc 2 tuổi), một bà chị khác đã chết năm 1974 ( có chồng và 03 người con).
Hiện tại, trên đất có vợ chồng người con trai cả của bà chị đã chết năm 1974 sinh sống. Gia đình tôi cho các cháu ở nhờ, trong nom đất đai, anh chị em chúng tôi đi làm công tác xa, thỉnh thoảng mới về quê chơi.
Đến nay, anh chị em chúng tôi muốn làm GCNQSD đất, vậy xin hỏi luật sư 03 người con của bà chị (đã chết năm 1974) có được hưởng thừa kế, thế vị hay không?
Rất mong nhận được sớm sự hướng dẫn của luật sư!
Xin chân thành cảm ơn!
 
Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Văn Phòng Luật Sư Gia Đình, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.”
Bên cạnh đó, tại Phần 1 Giải đáp 01/GĐ-TANDTC năm 2018 có quy định đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.
Do đó, với trường hợp của bạn, mẹ bạn mất năm 1977, bố bạn mất năm 1998 căn cứ theo quy định trên thì thời hiệu yêu cầu phân chia di sản thừa kế vẫn còn. Do vậy, các đồng thừa kế trong trường hợp này vẫn có quyền yêu cầu phân chia di sản thừa kế.
Thắc mắc của bạn về quyền thừa kế thế vị của 3 người con của bà chị đã chết, theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự 2015 về thừa kế thế vị thì: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
Theo thông tin bạn cung cấp thì người người chị này mất năm 1974, mẹ mất năm 1977, bố mất năm 1998. Như vậy, người chị này mất trước bố mẹ, do đó con của người chị sẽ được hưởng phần di sản mà người chị này được hưởng nếu còn sống theo quy định tại Điều 652 nêu trên, tức là 3 người con của người chị sẽ được thừa kế thế vị.

3. Tranh chấp thừa kế khi nhiều vợ, ai dược thừa kế khi chồng chết
Hơn năm năm trước, sau khi ông C. mất, gia đình ông đã vướng vào một vụ kiện đòi chia di sản của ông để lại. Sự việc càng phức tạp hơn bởi khoảng năm 1950 và 1960, ông C. sống như vợ chồng với hai phụ nữ khác…
Cả ba đều là vợ
Tháng 5-2005, TAND huyện Củ Chi (TP.HCM) xử sơ thẩm, dù không nhận định gì đến vai trò của ba bà vợ ông C. nhưng đã công nhận các con chung. Về việc chia thừa kế, tòa nhận định tài sản đòi chia là mảnh đất không phải của ông C. nên không thể chia cho các thừa kế.
TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm đã hủy án sơ thẩm vì cho rằng tòa cấp sơ thẩm vi phạm tố tụng, không triệu tập đủ người liên quan.
Tháng 12-2007, TAND huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm lại vụ án và lần này xác định ông C. có ba bà vợ. Hai bà ông sống từ những năm 1950 và 1960; bà còn lại là bà E., ông sống từ năm 1979 cho đến khi mất. Đồng thời, tòa chấp nhận chia cho các đồng thừa kế phần di sản ông C. để lại.
Tháng 3-2008, TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm vụ án cũng đã xác định ông C. có ba bà vợ như trên nhưng lập luận tại sao ba bà là vợ của ông C. thì tòa không đề cập tới. Cạnh đó, tòa cũng nhận định phần chia thừa kế tòa cấp sơ thẩm đã xử đúng…
Vợ cả, vợ hai, cả hai đều là vợ cả
Sau án phúc thẩm, tháng 5-2009, viện trưởng VKSND Tối cao quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Kháng nghị cho rằng nếu có việc ông C. chung sống với bà thứ hai từ năm 1960 thì cũng không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Bà E. sống với ông C. từ năm 1979 nên cũng không được công nhận là vợ chồng… Riêng bà còn lại, ông C. sống từ năm 1950 thì phải được coi là vợ ông C.
Tháng 7-2009, TAND Tối cao ra quyết định giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm của TAND TP.HCM, giao cho tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại. Quyết định cho rằng theo Nghị quyết số 02 ngày 19-10-1990 của TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế thì hai bà sống với ông C. từ những năm 1950, 1960 nêu trên mới là vợ chính thức của ông C. Mặc dù bà E. sống chung với ông C. từ năm 1979 và có với nhau bốn người con nhưng không được pháp luật công nhận là vợ chồng vì sống chung sau khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959.
Tháng 3-2010, TAND huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm lần ba đã nhận định như quyết định giám đốc thẩm. Theo đó, ông C. chỉ có hai bà vợ nêu trên, còn bà E. dù sống với ông C. từ năm 1979 (sau khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959) nên không được công nhận là vợ chồng.
Bà E. tiếp tục kháng cáo nhưng vừa qua, TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm nhận định như bản án sơ thẩm và tuyên y án…
Bà E. cũng là vợ ông C.?
Nghị quyết 35 (ngày 9-6-2000) về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình và Thông tư liên tịch số 01 của TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Tư pháp (ngày 3-1-2001) hướng dẫn nghị quyết nói trên quy định: Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3-1-1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Theo đó, nam và nữ được coi là chung sống với nhau như vợ chồng nếu như họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp: việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình… "Tôi cho rằng bà E. và ông C. có đủ các yếu tố quy định này. Tòa án phải công nhận bà E. là vợ ông C. và theo đó, bà cũng là một trong những đồng thừa kế…"
 
Công nhận hai bà trước là vợ: Phải có chứng cứ!
Theo Nghị quyết số 02 ngày 19-10-1990 của TAND Tối cao (hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thừa kế năm 1990), trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-1-1960, ngày công bố Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977, ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
Nếu có chứng cứ (bằng văn bản) hoặc sự làm chứng khách quan của những người xung quanh về việc họ chung sống như vợ chồng thì có thể công nhận là vợ chồng. Tuy nhiên, để được công nhận là vợ chồng thì tòa cần phải chú trọng vào chứng cứ (bằng văn bản), hộ khẩu, khai sinh, các loại giấy tờ khác.
Ngược lại, nếu không chứng minh được thì sẽ không được coi là vợ chồng. Khi đó, bà E. mới thực sự là vợ vì đủ các điều kiện được quy định tại Nghị quyết 35 ngày 9-6-2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình và Thông tư liên tịch số 01 của TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Tư pháp ngày 3-1-2001 hướng dẫn nghị quyết nói trên.
Trường hợp này, theo tôi, các cấp tòa sơ, phúc thẩm chưa đưa ra được chứng cứ và sự làm chứng khách quan mà đã công nhận hai bà trước là vợ là chưa thỏa đáng. Cụ thể: Người con gái được cho là con chung giữa ông C. và bà thứ hai lại khác họ với ông C. Ngoài ra, chính quyền địa phương nơi bà thứ nhất và bà thứ hai đều xác nhận trong sổ bộ gốc cho thấy hai bà này không hề có liên quan đến ông C…
 
4. Trường hợp nào vợ hai được thừa kế tài sản của chồng?
Trong trường hợp vợ cả đã qua đời và người chồng lấy thêm vợ hai, thì người vợ mới này có được quyền hưởng tài sản thừa kế gì không nếu chồng mất?
1. Trường hợp người chồng trước khi mất có để lại di chúc
Theo Điều 626 Bộ luật dân sự 2015, người lập di chúc có quyền sau đây:
- Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản
Như vậy, trong trường hợp này, người chồng toàn quyền quyết định việc để lại di sản cho bất cứ ai, không nhất thiết phải là những người trong hàng thừa kế theo luật định. Việc người vợ hai có được hưởng di sản thừa kế của chồng hay không sẽ pụ thuộc vào nội dung của di chúc này.
Tuy nhiên, để di chúc có hiệu lực và đưa vào áp dụng, đảm bảo quyền lợi của người hưởng thừa kế thì di chúc đó phải là di chúc hợp pháp. Tức là phải đảm bảo các điều kiện được quy định tại Điều 630 Bộ luật dân sự 2015, ví dụ như: Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật...
2. Trường hợp người chồng không để lại di chúc
Nhiều trường hợp người mất đột ngột do tai nạn, đột tử hoặc vì lý do nào đó mà không để lại di chúc, thì sẽ phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Khi đó, việc người vợ hai có được hưởng di sản của chồng hay không còn phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của họ với người quá cố. Lúc này sẽ xảy ra 1 trong 2 trường hợp như sau:
Người vợ hai và chồng đã đăng ký kết hôn
Trong trường hợp này, người vợ hai đã được công nhận là vợ hợp pháp. Vì vậy, nếu người chồng mất và không để lại di chúc, người vợ hai sẽ được hưởng thừa kế hàng thứ nhất theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015.
Hàng thừa kế thứ nhất này gồm có: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Người vợ hai và chồng chưa đăng ký kết hôn
Nếu chỉ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, thì về mặt pháp luật, người vợ hai này sẽ không được công nhận có quan hệ hôn nhân với người chồng quá cố. Mặt khác, người chồng lại không để lại di chúc nên người vợ hai sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế từ chồng.
Trường hợp ngoại lệ, Pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam có công nhận quan hệ vợ chồng nếu nam nữ chung sống như vợ chồng từ trước năm 1987. Tức là trường hợp không có đăng ký kết hôn mà hai người chung sống với nhau từ trước 1987 đến nay thì được coi là quan hệ hôn nhân thực tế và được công nhận quan hệ vợ chồng. Đồng thời, người vợ này có quyền thừa kế với khối di sản mà chồng để lại (không có di chúc) giống như đã phân tích ở trường hợp thứ nhất.
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.

Hình ảnh văn phòng bào chữa