Luật sư tư vấn chia thừa kế

1. Tư vấn thủ tục lập di chúc:

 - Tư vấn soạn thảo, lập di chúc;
- Tư vấn luật về quyền thừa kế không phụ thuộc di chúc, chia tài sản thừa kế không phụ thuộc di chúc;
- Thủ tục lập di chúc đối với tài sản là đồng sở hữu, tài sản chung vợ chồng;
- Cách thức chia thừa kế, hàng thừa kế, phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, theo di chúc;
- Thủ tục để làm di chúc theo đúng quy định của pháp luật về thừa kế để có bảng di chúc hợp pháp, đảm bảo tính hiệu lực của di chúc. Tư vấn các vấn đề liên quan đến lập di chúc cho tài sản khác.

2. Tư vấn về Di sản thừa kế:

 - Tư vấn luật về quyền thừa kế theo pháp luật, theo di chúc;
- Tư vấn xác định giá trị pháp lý của di chúc.
- Tính hợp pháp của di sản thừa kế. Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, nhà ở;
- Tư vấn giá trị từng phần cho mỗi đồng thừa kế. Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, thừa kế nhà ở;
- Cách thức phân chia tài sản thừa kế theo pháp luật, chia thừa kế theo di chúc;
- Thủ tục khai nhận di sản, từ chối nhận di sản thừa kế;
- Tư vấn xác định hàng thừa kế, phần công sức đóng góp của người trực tiếp quản lý di sản thừa kế.Đặc biệt trong trường hợp thừa kế đất đai, thừa kế nhà ở;
- Liên hệ các cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật luật về thừa kế để phân chia di sản thừa kế.

3. Tư vấn thủ tục giải quyết tranh chấp quyền thừa kế, hàng thừa kế, tài sản thừa kế, giá trị pháp lý của di chúc:

 

- Tư vấn pháp luật về quyền thừa kế, tài sản thừa kế, xác định hàng thừa kế để chia thừa kế. Giải quyết tranh chấp trong việc chia thừa kế theo pháp luật, chia thừa kế theo di chúc giữa các đồng thừa kế;
- Thay mặt các bên tiến hành đàm phán, hòa giải, thương lượng chia thừa kế;
- Dựa trên những tài liệu, chứng cứ của khách hàng. Luật sư chúng tôi đánh giá và phân tích vụ việc tranh chấp một cách toàn diện. Đưa ra những phương án cụ thể có lợi nhất trong quá trình đàm phán, hòa giải với đối phương. Giúp khách hàng hoặc thay mặt khách hàng soạn thảo văn bản, giấy tờ liên quan đến việc giải quyết tranh chấp gửi đến cơ quan có thẩm quyền liên quan đến vụ việc.
- Hướng dẫn và tư vấn cho khách hàng trình tự thủ tục khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách chủ thể và soạn đơn khởi kiện gửi đến Tòa án có thẩm quyền.
- Kiến nghị hoặc hướng dẫn khách hàng khiếu nại các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan khi ban hành những quyết định không đúng thủ tục, trình tự…gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
- Tham gia gia tố tụng với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của  khách hàng tại tòa án các cấp.
- Tham gia tố tụng với tư cách là đại diện ủy quyền- nhân danh khách hàng thực hiện tất cả các phương án và cách thức theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng một cách tốt nhất tại tòa án các cấp.

LS TRẦN MINH HÙNG TRƯỞNG VPLS GIA ĐÌNH TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH TPHCM

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, các vụi Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Tổng hợp các dạng vi phạm khi giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế

  1.  
  2.  
 

Những năm gần đây, tranh chấp về di sản thừa kế gia tăng và việc giải quyết loại án này luôn là mối quan tâm của xã hội, thậm chí gây bức xúc khi có những vụ việc phải giải quyết nhiều lần, qua nhiều cấp xét xử do khiếu kiện kéo dài. Từ thực […]

Những năm gần đây, tranh chấp về di sản thừa kế gia tăng và việc giải quyết loại án này luôn là mối quan tâm của xã hội, thậm chí gây bức xúc khi có những vụ việc phải giải quyết nhiều lần, qua nhiều cấp xét xử do khiếu kiện kéo dài.

Từ thực tiễn công tác cho thấy, trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp về thừa kế Kiểm sát viên cần lưu ý một số dạng vi phạm như sau:

  1. Điều tra xác minh chưa đầy đủ
  • Giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng diện tích đất thực tế (theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ nhiều hơn diện tích được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án không yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho ý kiến về diện tích đất tăng thêm để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Ví dụ: Vụ án “tranh chấp thừa kế” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị A, bị đơn là bà Võ Thị B: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/8/1998 thể hiện thửa đất 327 có tổng diện tích 633m2. Tuy vậy, hồ sơ vụ án chưa có chứng cứ chứng minh thửa đất tranh chấp là tài sản chung của cụ Võ Trọng X và cụ Võ Thị C, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh tại cơ quan có thẩm quyền về thời điểm cấp đất để xác định thửa đất nêu trên là tài sản chung của vợ chồng cụ X hay là tài sản riêng của cụ Võ Thị C. Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ thể hiện thửa đất tranh chấp có diện tích 808.6m2. Sơ đồ thửa đất ngày 28/9/2017 thể hiện thửa đất có diện tích 829,72m2. Tại Công văn số 94/CV ngày 20/9/2017, UBND xã N.L xác nhận diện tích đất thừa so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (196,72m2) là đất vườn liền kề đất ở của gia đình bà C. Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án thì bà B ở trên đất tranh chấp từ năm 1987. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ tứ cận thửa đất từ khi vợ chồng cụ X tạo lập và sinh sống đến nay có thay đổi hay không, nguyên nhân diện tích đất thực tế lớn hơn diện tích đất được cấp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do sai số đo đạc hay do khai hoang, nếu khai hoang thì ai khai hoang để có cơ sở giải quyết tranh chấp là thiếu sót.

  • Chưa làm rõ nghĩa vụ của người chết để lại: Vụ án “tranh chấp di sản thừa kế” giữa ông Nguyễn Trọng Đ và ông Nguyễn Chính T: Các đương sự yêu cầu chia di sản thừa kế của ông D, quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều thừa nhận năm 1995 ông D đã viết giấy bán nhà đất cho ông C với số tiền là 15.000.000 đồng. Ông Đ, ông H, ông C đều trình bày do việc mua bán không thành nên ông D đã trả tiền lại cho ông C, bà H là người đại diện theo ủy quyền của ông C trình bày ông D chỉ mới trả cho ông C số tiền mua nhà đất là 5.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm không điều tra xem xét giải quyết nghĩa vụ của ông D để lại là thiếu sót, làm thiệt hại đến quyền lợi của đương sự.
Ảnh minh họa
  1. Không đưa đầy đủ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng
  • Khi chia di sản thừa kế cần xác định đầy đủ những người thuộc hàng thừa kế theo thứ tự, nếu hàng thừa kế thứ nhất không còn thì xác định đến hàng thừa kế thứ hai, hàng thừa kế thứ ba… Cần lưu ý trường hợp một hoặc một số con của người để lại di sản chết thì cần xác định họ chết trước hay chết sau người để lại di sản để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
  • Khi chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, cần xác định xem quyền sử dụng đó có thế chấp tại cơ quan, tổ chức, cá nhân nào không để đưa họ tham gia tố tụng.

Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế” giữa bà Nguyễn Thị H và bà Hồ Thị L: Tại biên bản lấy lời khai bà Hồ Thị L ngày 02/11/2012: bà L khai “hiện nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang được Ngân hàng nông nghiệp giữ.” Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án từ năm 2012 đến khi xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu bà L xuất trình bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không lấy lời khai của bà L để làm rõ có hay không việc bà L đang dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp vay tiền tại ngân hàng để đưa Ngân hàng nông nghiệp tham gia tố tụng mà vẫn tuyên hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng.

  1. Vi phạm trong việc giải quyết tài sản trên đất (là di sản thừa kế)
  • Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa bà Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị V: Bản án nhận định bà V và anh H là người xây dựng các công trình trên đất, không hỏi ý kiến anh H về giải quyết tài sản trên đất nhưng chỉ buộc bà Nị trả số tiền giá trị bờ rào cho một mình bà V làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh H
  • Vụ án “kiện đòi lại di sản thừa kế” giữa nguyên đơn ông Lương Bá H và bị đơn ông Phạm Văn P và bà Nguyễn Thị Đ: Buộc ông H, ông T, ông L, ông M phải trả giá trị tài sản trên đất cho ông P, bà Đ là 28.058.000 đồng nhưng không chia kỷ phần cho từng người.
  1. Vi phạm trong việc giải quyết trích công sức cho người thừa kế có công tôn tạọ, quản lý di sản
  • Đương sự cho rằng đất của mình, không phải di sản nên không yêu cầu trích công sức tôn tạo, bảo quản di sản, bản án sơ thẩm không áp dụng nội dung án lệ để giải quyết trích công sức cho người có công bảo quản di sản.
  • Có nhiều người có công sức tôn tạo bảo quản di sản thừa kế nhưng chỉ trích cho một người hoặc một số người. Vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế” giữa bà Nguyễn Thị H và bà Hồ Thị L: Ông Trương Văn D kết hôn với bà Hồ Thị L năm 1986 và sống với ông T bà N trên mảnh đất đang tranh chấp. Năm 2003, ông Trương Văn D chết. Như vậy vợ chồng ông đã sống chung trên mảnh đất này 17 năm. Từ năm 2003 đến này bà L sống chung với bà N trên mảnh đất này. Vợ chồng bà L sống với ông T bà N trên diện tích đất tranh chấp đã có công sức bảo vệ, tôn tạo đất và thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với diện tích đất này. Tòa án cấp sơ thẩm tính trích công sức cho bà L mà không tính trích công sức cho ông D là thiếu sót, làm thiệt hại đến quyền lợi của bà L và các con.
  • Có nhiều người có công sức tôn tạo bảo quản di sản thừa kế, một số người đồng ý giao phần công sức của họ cho một người quản lý, sử dụng, một số người chưa có ý kiến nhưng lại giao toàn bộ công sức của tất cả cho một người quản lý, sử dụng. Vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa ông Nguyễn Quốc K và bà Nguyễn Thị H: Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà H và 06 người con có công sức tôn tạo bảo quản di sản thừa kế, trong đó có 03 người con đồng ý giao phần công sức họ được hưởng cho bà H, 03 người con chưa có ý kiến gì về nội dung này nhưng bản án quyết định giao toàn bộ công sức có trị giá ½ thửa đất là di sản cho một mình bà H sử dụng làm ảnh hưởng quyền và lợi ích của 3 người con đó.
  1. Quyết định của bản án không đầy đủ, cụ thể; không đúng quy định pháp luật
  • Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên người để lại di sản, sau đó chia cho các đồng thừa kế và trích công sức bằng đất nhưng không yêu cầu các đương sự đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục theo quy định pháp luật.
  • Buộc nguyên đơn hoặc bị đơn phải trích tiền công sức, tiền trị giá tài sản trên đất thừa kế, trích tiền chênh lệch chia di sản thừa kế cho người có công sức, có tài sản hoặc đồng thừa kế nhưng không giao số tiền đó cho người được trích.
  • Giao cho được quyền sở hữu phần tường bao, nhà, công trình, cây cối đã xây dựng và trồng trên đất thừa kế được giao, được quyền sở hữu các tài sản trên đất nhưng không quyết định cụ thể bao nhiêu mét tường bao; giao ngôi nhà, công trình nào; số lượng các loại cây là chưa đầy đủ, gây khó khăn cho công tác thi hành án.
  1. Vi phạm trong việc quyết định chi phí định giá tài sản, thẩm định tại chỗ

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành định giá tài sản theo yêu cầu của đương sự nhưng hồ sơ không thể hiện chi phí định giá, thẩm định là bao nhiêu, ý kiến của người nộp tạm ứng chi phí đối với số tiền đã nộp như thế nào nhưng phần quyết định của bản án không quyết định về trách nhiệm chịu chi phí định giá theo quy định tại Điều 165 BLTTDS, Điều 42 Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 ngày 28/3/2012 về chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng.

  1. Vi phạm về án phí
  • Vi phạm trong việc tính án phí đối với người được hưởng di sản
  • Vi phạm trong việc không tính án phí đối với phần di sản giao cho các đương sự sử dụng vào mục đích thờ cúng.
  • Vi phạm trong việc miễn, giảm án phí
  • Người được chia, được hưởng di sản là người cao tuổi nhưng không xem xét, hướng dẫn cho đương sự làm các thủ tục để được miễn nộp án phí mà buộc họ phải chịu án phí. Điển hình: Tại bản án số 14/2017/DSST ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện DC giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế giữa anh Cao Văn B và bà Cao Thị S: Bà S, bà N, bà T là người cao tuổi được miễn án phí nhưng bản án sơ thẩm vẫn buộc họ phải chịu án phí là không đúng quy định tại Nghị quyết 326/2016.
  • Giảm án phí không đúng quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 326/2016-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016: Khi đương sự thuộc trường hợp được giảm nộp tạm ứng án phí nhưng bản án sơ thẩm giao cho đương sự sở hữu, sử dụng tài sản có giá trị lớn thì cần xác định đương sự không thuộc trường hợp được giảm án phí.
  • Người được miễn án phí thì chỉ được miễn án phí đối với phần di sản họ được chia được hưởng nhưng một số vụ án bản án quyết định miễn án phí cả phần thừa kế của những người khác tặng cho người đó là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTCVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Nguyễn Thị Mai Dung
Phòng 9 – VKSND tỉnh Nghệ An
Nguồn: cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao

 

Hình ảnh văn phòng bào chữa