Một số ý kiến về tranh tụng tại phiên tòa trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Một số ý kiến về tranh tụng tại phiên tòa trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

  • Print 
  • Email

p15.3.9.2016Tranh tụng tại phiên tòa lần đầu tiên được đưa vào quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015), đây là bước tiến rất lớn không những trong pháp luật tố tụng dân sự mà trong cả tư duy lập pháp. 

Như chúng ta đã biết, mục đích của tranh tụng là nhằm bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự, bên cạnh đó nhờ có hệ thống những quy định về tranh tụng hết sức chặt chẽ mà các chủ thể có thể tự mình hoặc thông qua người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trình bày ý kiến, đưa ra những chứng cứ, tài liệu, lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Trên cơ sở của tranh tụng sẽ giúp cho Hội đồng xét xử giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và chính xác. 

Điều 24 BLTTDS năm 2015 quy định “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” là một nguyên tắc. Khi giải quyết vụ án dân sự buộc các chủ thể của tố tụng dân sự phải tuân theo nguyên tắc này. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai (trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này). Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.    

Từ nguyên tắc chung đã nêu ở trên, việc tranh tụng tại phiên tòa dân sự được cụ thể hóa tại Phần tranh tụng. Phần này được thiết kế gồm 17 Điều (từ Điều 247 đến Điều 263) trong mục 3 Chương XIV của BLTTDS năm 2015, quy định rất chi tiết về chủ thể, nội dung, phương thức và trình tự, thủ tục tranh tụng. Tìm hiểu sâu hơn về phần này, chúng ta sẽ biết được các nhà làm luật khi nghiên cứu xây dựng phần tranh tụng đã dựa trên cơ sở bộ khung đã được quy định tại phần thủ tục hỏi và phần tranh luận tại phiên tòa trong BLTTDS năm 2004. Từ đó, BLTTDS năm 2015 đã sáp nhập hai phần này và có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với lý luận và thực tiễn xét xử.

 

            Điều 247 BLTTDS năm 2015 quy định như sau: “1. Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án.

          2. Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.

          3. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không có liên quan đến vụ án dân sự”.

           Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã quy định rất chi tiết nội dung của tranh tụng từ việc trình bày chứng cứ cho đến việc phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Đồng thời, quy định rất rõ nội dung, trình tự thủ tục tranh tụng đều phải tuân theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. Trong quá trình tranh tụng thì các chủ thể của tố tụng dân sự phải tranh tụng trên cơ sở dân chủ, bởi đã tranh tụng là phải bình đẳng và trình tự, thủ tục phải rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đương sự khi tham gia tố tụng dân sự.

          Những điểm mới về nội dung, phương thức và trình tự, thủ tục tranh tụng trong tố tụng dân sự được thể hiện ở những khía cạnh sau:

           Thứ nhất, việc trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 248 BLTTDS):

           Về cơ bản, kết cấu và nội dung của Điều này được kế thừa từ quy định cũ của BLTTDS năm 2004. Tuy nhiên, quy định tại khoản 3 Điều 248 BLTTDS năm 2015 có sự thay đổi đáng kể như sau: “Tại phiên tòa, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ có quyền bổ sung chứng cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 96 của Bộ luật này để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình”. Đối chiếu với quy định tại khoản 4 Điều 96 BLTTDS năm 2015 thì những chứng cứ, tài liệu mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự. Quy định như vậy, thực sự hợp lý bởi những chứng cứ, tài liệu nêu trên là hoàn toàn khách quan, đương sự không biết hoặc không nhận thức được nên không kịp thời giao nộp cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ án.Trước đây, BLTTDS năm 2004 quy định “tại phiên tòa đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình”, quy định như trên là không hợp lý, bởi nếu tại phiên tòa đương sự được cung cấp tất cả các chứng cứ sẽ gây cản trở cho việc xét xử, khó khăn cho việc đánh giá chứng cứ, hơn nữa trong các giai đoạn tố tụng trước đó đương sự đã được quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ nên việc cho đương sự nộp thêm chứng cứ khi không có lý do khách quan là không bảo đảm. Do vậy, quy định mới như trong BLTTDS năm 2015 là phù hợp và bảo đảm được quyền lợi của các đương sự khi tham gia tố tụng mà không gây cản trở cho hoạt động xét xử của Tòa án.

           Thứ hai, về việc hỏi tại phiên tòa (từ Điều 249 đến Điều 253 BLTTDS):

            Điều 249 BLTTDS năm 2015 quy định rất rõ ràng về thứ tự và nguyên tắc hỏi tại phiên tòa, trong đó nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước, sau đó đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người tham gia tố tụng khác, Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Nội dung các câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng.

           Về nội dung hỏi của các đương sự cơ bản được kế thừa từ quy định của BLTTDS năm 2004. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 253 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định“Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi người làm chứng sau khi được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa”. Việc bổ sung quy định này cũng là hợp lý, bởi nguyên tắc của tranh tụng là bình đẳng, trong đó các đương sự có quyền hỏi người làm chứng để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án.

         Thứ ba, việc tạm ngừng phiên tòa (Điều 259 BLTTDS):

         Tạm ngừng phiên tòa được hiểu là tạm thời dừng lại phiên tòa, bởi trong quá trình xét xử có những tình tiết phát sinh buộc phải dừng lại cho đến khi lý do tạm ngừng đó không còn nữa. Khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015 nêu 6 căn cứ để Hội đồng xét xử ra quyết định tạm ngừng phiên tòa như: “Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng. Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt. Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa...”. Đây là quy định mới được bổ sung trong BLTTDS năm 2015 là rất cần thiết, bởi khi có lý do làm cản trở tới quá trình giải quyết vụ án nếu không tạm ngừng thì vụ việc không thể giải quyết được, khi đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng dân sự. Trước đây, BLTTDS năm 2004 không quy định việc tạm ngừng phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ ra Quyết định hoãn phiên tòa khi mà căn cứ hoãn đó không có căn cứ. Do vậy, BLTTDS năm 2015 quy định bổ sung việc tạm ngừng phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn xét xử.

        Thứ tư, việc phát biểu, tranh luận, đối đáp (Từ Điều 260 đến Điều 263 BLTTDS):

            Khoản 1 Điều 260 BLTTDS năm 2015 đã quy định rất chi tiết về trình tự phát biểu khi tranh luận, về cơ bản không có nhiều thay đổi so với quy định tại Điều 232 BLTTDS năm 2004, chỉ bổ sung quy định “Các đương sự khi đối đáp phải tuân theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa và khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án”. Việc bổ sung quy định này là cần thiết, tuy nhiên về kết cấu điều luật nên xây dựng trong khoản khác riêng biệt cho phù hợp.

           Cũng tại khoản 3 của Điều này quy định: “Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp”. Đây là quy định mới, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng triệt để, trong đó quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khi tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, mọi chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đều phải được xem xét một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và công khai tại phiên tòa.

           Tại Điều 262 BLTTDS năm 2015 quy định về việc phát biểu của Kiểm sát viên, quy định này có sự thay đổi đáng kể so với quy định của BLTTDS năm 2004. Trước đây, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa chỉ được phát biểu về tố tụng của vụ án nhưng theo quy định hiện nay Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, tức là phát biểu cả về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án. Quy định như vậy, thể hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ngày càng sâu hơn, giúp Kiểm sát viên có thể nghiên cứu vụ án một cách toàn diện, nắm chắc hồ sơ, chứng cứ để đưa ra quan điểm phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Quan điểm của Kiểm sát viên là một hướng mới để Hội đồng xét xử cân nhắc khi nghị án để đưa ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật.

          Trên đây là một số nội dung mới trong Phần tranh tụng của BLTTDS năm 2015, dưới góc nhìn so sánh với BLTTDS năm 2004. Nhìn chung những quy định trong phần tranh tụng có nhiều điểm tiến bộ và phù hợp với thực tiễn xét xử, tuy nhiên theo quan điểm cá nhân tôi vẫn còn một số hạn chế cần sửa chữa, khắc phục như sau:

          Thứ nhất, về kết cấu của Phần tranh tụng:

          Tại Điều 259 “tạm ngừng phiên tòa”, Điều 262 “Phát biểu của Kiểm sát viên” nằm trong phần tranh tụng là không thực sự khoa học, hợp lý, bởi 2 Điều này về bản chất không thể hiện nội dung tranh tụng. Do vậy, cần phải hiểu chính xác để tránh sự nhầm lẫn trong nhận thức.

      Khoản 1 Điều 260 BLTTDS năm 2015 quy định về trình tự phát biểu của các đương sự khi tranh luận nhưng tại các điểm d, đ khoản 1 Điều này lại quy định về việc điều khiển của Chủ tọa phiên tòa trong phần tranh luận. Do vậy, cần tách quy định tại các điểm d, đ ra khoản khác riêng biệt với khoản 1 sẽ khoa học, hợp lý hơn.

          Thứ hai, về việc hỏi tại phiên tòa:

           Tại khoản 3 Điều 253 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi người làm chứng sau khi được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa”. Việc bổ sung quy định này là hợp lý, nhưng nếu quy định việc đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quyền hỏi người làm chứng là đương nhiên mà không bắt buộc phải được sự cho phép của Chủ tọa phiên tòa thì sẽ đảm bảo hơn nữa quyền lợi của các đương sự khi tham gia tố tụng và đảm bảo việc xét xử công khai, khách quan.

         Thứ ba, về việc đối đáp:

          Thiết nghĩ BLTTDS năm 2015 nên có một hướng dẫn cụ thể về việc đương sự tham gia phiên tòa đối đáp với người làm chứng và đặc biệt là đối đáp với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Khi Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật của các đương sự và phát biểu về việc giải quyết vụ án, nếu có đương sự nào không đồng ý với những ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên thì có quyền đối đáp lại. Bởi giữa Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa đưa ra quan điểm cũng cần phải được đối đáp bình đẳng với các đương sự khác.

          Tại Điều 262 BLTTDS 2015 cũng cần giải thích rõ đây là lời phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, bởi nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì vụ án vẫn được xét xử bình thường, không hoãn phiên tòa (Điều 232 BLTTDS).

           Trên đây là một số ý kiến về tranh tụng tại phiên tòa trong BLTTDS năm 2015, dưới góc nhìn so sánh với BLTTDS 2004, để đưa ra những nhận định, phân tích và góp ý nhằm hoàn thiện quy định về phần tranh tụng. Bài viết hoàn toàn là quan điểm cá nhân, với mục đích trao đổi, học hỏi kinh nghiệm nên rất mong nhận được sự quan tâm của bạn đọc./.

Hoàng Minh Công - VKSND huyện Ba Chẽ
Nguồn: http://vksquangninh.gov.vn/component/content/article/270-cac-d-o-lu-t-tu-phap-m-i/2220-m-t-s-y-ki-n-v-tranh-t-ng-t-i-phien-toa-trong-b-lu-t-t-t-ng-dan-s-nam-2015


Hình ảnh văn phòng bào chữa