Tư vấn kỹ năng tranh tụng tại tòa án

KỸ NĂNG ĐIỀU HÀNH TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ CỦA THẨM PHÁN (Kỳ III)
TS. PHẠM MINH TUYÊN (Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh) - Theo quy định tại Điều 307, trong giai đoạn xét hỏi chủ tọa phiên tòa được toàn quyền điều hành và đóng vai trò chính trong việc xét hỏi. Để điều hành tốt phần xét hỏi cũng như việc bảo đảm tranh tụng trong xét hỏi, chủ tọa phiên tòa cần lưu ý một số vấn đề.

01 tháng 02 năm 2018 09:10 GMT+7     0 Bình luận
Về trình tự xét hỏi tại phiên tòa, Tại Điều 307 “Trình tự xét hỏi” của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng đã quy định cụ thể như:

“1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.

Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.

Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.

Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.

Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án”.

Theo quy định tại Điều 307 nêu trên, trong giai đoạn xét hỏi chủ tọa phiên tòa được toàn quyền điều hành và đóng vai trò chính trong việc xét hỏi. Để điều hành tốt phần xét hỏi cũng như việc bảo đảm tranh tụng trong xét hỏi, chủ tọa phiên tòa cần chú ý những vấn đề sau:

Thứ nhất: Chủ tọa phiên tòa phải căn cứ vào đề cương, kế hoạch xét hỏi để khi xét hỏi phải xác định được đầy đủ các tình tiết về từng sự việc, từng hành vi phạm tội và các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.

Xét hỏi theo một thứ tự hợp lý là một yêu cầu mà chủ tọa phiên tòa phải dự kiến trước, căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, nhất là đối với vụ án có nhiều bị cáo bị truy tố về nhiều tội khác nhau.

Thứ hai: Không nên cho rằng, quy định về trình tự xét hỏi tại Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự là do Chủ tọa phiên tòa chủ động toàn bộ, còn việc xét hỏi của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là thụ động và chỉ tham gia xét hỏi khi chủ toạ phiên tòa nhắc mới hỏi và cũng chỉ hỏi có tính chất bổ sung còn việc hỏi để chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết của vụ án vẫn do chủ tọa phiên tòa thực hiện! Chính cách hiểu như vậy, đã dẫn đến nhiều trường hợp Hội đồng xét xử vẫn còn giải thích Bộ luật hình sự hoặc giáo dục bị cáo về thái độ khai báo hoặc kết luận trước về lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, làm cho bị cáo và những người tham gia phiên tòa cho rằng Hội đồng xét xử đã không khách quan, bản án đã được chuẩn bị sẵn, việc xét xử tại phiên tòa chỉ còn là thủ tục hình thức. Để khắc phục những nhược điểm trên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu và thực hiện đúng tinh thần quy định của BLTTHS là đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phải bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên tòa; chứng minh mọi luận điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án.

Hơn nữa, theo quy định tại khoản 1 Điều 307 BLHS 2015 thì “Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.”

Để vừa thể hiện đúng quy định của pháp luật vừa bảo đảm tính tranh tụng tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa vẫn phải hỏi trước, nhưng chỉ nên đặt câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, gợi mở chứ không được kết luận. Còn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội, nên dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Nếu trong quá trình điều hành phần xét hỏi, khi thấy câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung hoặc những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, bí mật điều tra; xúc phạm nhân phẩm, danh dự con người thì chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu cầu người trả lời không trả lời câu hỏi đó.

Đối với người Bào chữa khi tham gia xét hỏi để bào chữa cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, thông thường hay đặt câu hỏi nhằm có lợi cho thân chủ mà mình bảo vệ, đôi khi có tính mớm cung hoặc tạo điều kiện để thân chủ của mình phản cung tại phiên tòa. Do vậy, Chủ tọa phiên tòa cần chú ý về việc xét hỏi của người bào chữa để có biện pháp chấn chỉnh người bào chữa hỏi cho đúng trọng tâm và cần thiết có thể cắt phần xét hỏi của người bào chữa nếu cố tình không chấp hành sự điều hành của Chủ tọa phiên tòa.

Thứ ba: Về xét hỏi đối với bị cáo tại phiên tòa:

Việc xét hỏi đối với bị cáo tại phiên tòa, cần phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công minh, không thể hiện ý thức chủ quan của người hỏi là một yêu cầu của tố tụng thẩm vấn. Do vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần tập trung làm rõ các tình tiết là yếu tố định tội mà Viện kiểm sát truy tố; các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm dân sự; đến xử lý vật chứng.v.v… Tuy nhiên, việc đặt câu hỏi phải mang tính gợi mở, tạo điều kiện cho bị cáo được khai báo một cách thoải mái nhất, không được hỏi mang tính truy chụp đối với bị cáo. Trong quá trình xét hỏi, không chỉ xét hỏi về các tình tiết buộc tội mà phải xét hỏi cả các tình tiết gỡ tội đối với bị cáo, kể cả trường hợp bị cáo không thừa nhận lời khai nhận tội tại Cơ quan điều tra thì cũng không được có thái độ mang tính áp đặt, dọa nạt, ép buộc mà cần phân tích hỏi và lắng nghe sự lý giải của bị cáo tại phiên tòa vì sao tại Cơ quan điều tra nhận tội mà tới phiên tòa lại phủ nhận lời khai nhận tội. Thực tế có nhiều vụ án, nhiều trường hợp khi xét hỏi bị cáo thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã bộc lộ ngay định kiến xét hỏi theo hướng buộc tội hoặc theo hướng gỡ tội, thông qua việc xét hỏi như vậy những người dự phiên toà đã biết được hoặc bàn tán nói trước Hội đồng xét xử sẽ ra bản án như thế nào đối với bị cáo. Việc xét hỏi tại phiên tòa là một nghệ thuật, đòi hỏi người hỏi phải khách quan, không thành kiến hoặc định kiến trước, không truy trụp hoặc đặt câu hỏi theo kiểu bức cung hoặc mớm cung, không giải thích hoặc giáo dục bị cáo theo kiểu mớm cung như: Nếu nhận tội thì được giảm nhẹ hình phạt, khi thấy bị cáo không thừa nhận lời khai của mình tại giai đoạn điều tra thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa luôn có thái độ dồn ép và công bố các bút lục ghi lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra để gây áp lực nên bị cáo. Theo chúng tôi việc làm như vậy là không phù hợp với nguyên tắc tranh tụng vì theo quy định tại Điều 308 “Công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố” có quy định:

“1. Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên không được công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố. Chỉ được công bố những lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;

b) Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa hoặc không nhớ những lời khai của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố;

c) Người được xét hỏi đề nghị công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;

d) Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.

Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu của người tham gia tố tụng hoặc tự xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử không công bố tài liệu có trong hồ sơ vụ án”.

Nếu chỉ mới thấy bị cáo không thừa nhận lời khai mà đã vội công bố các lời khai của họ tại giai đoạn điều tra, truy tố là quá phụ thuộc vào hồ sơ vụ án mà không tôn trọng diễn biến của phiên tòa, như vậy dễ dẫn đến tình trạng oan sai. Cũng theo quy định tại Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì:

“…Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án”. Do vậy, việc xét hỏi những vấn đề liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội thì Chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi mang tính gợi mở còn lại yêu cầu đại diện Viện kiểm sát chủ động hỏi làm rõ để bảo vệ bản Cáo trạng của Viện kiểm sát. Việc điều luật quy định, Kiểm sát viên không chỉ hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội mà còn phải hỏi cả những tình tiết liên quan đến việc gỡ tội là thể hiện bản chất tố tụng hình sự của nước ta là tố tụng “thẩm vấn” và nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” là mục đích tối thượng của tố tụng Nhà nước. Bởi vì, Kiểm sát viên tại phiên tòa  có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Trong lời luận tội của Kiểm sát viên cũng không chỉ nêu các nội dung chứa đựng các tình tiết buộc tội bị cáo mà còn phải nêu các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Trong trường hợp bị cáo đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa cũng cần xem xét ý kiến của bị cáo, nếu phù hợp và cần thiết cũng nên chấp nhận ý kiến đề nghị của bị cáo để làm sang tỏ thêm các tình tiết của vụ án. Nếu sau khi xét hỏi mà chứng minh bị cáo không phạm tội thì Kiểm sát viên còn phải rút quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án.

Thứ tư: Xét hỏi những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.

Điều 310 Bộ luật tố tụng 2015 “Hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ” có quy định:

“Bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ trình bày những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.

Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”.

Vấn đề xét hỏi đối với người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ như quy định trên cho thấy, khi xét hỏi nên nêu vấn đề để họ trình bày về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó Kiểm sát viên, người bào chữa hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đủ hoặc có mâu thuẫn. Đối với người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng quan trọng của vụ án thì cần phải hỏi kỹ các tình tiết có liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo. Như vậy, tại phiên toà những người này trình bày là chính, còn chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi khi thấy cần thiết phải làm rõ thêm những tình tiết của vụ án bao gồm cả buộc tội và gỡ tội. Nếu bị cáo, thấy có những vấn đề mà những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày chưa rõ thì họ có quyền đề nghị Hội đồng xét xử cho phép được hỏi bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ thì cũng nên để cho họ được phép hỏi để làm sáng tỏ thêm các tình tiết của vụ án.

Đối với nguyên đơn dân sự, cần chú ý hỏi xem họ có yêu cầu bồi thường thiệt hại không, nếu việc yêu cầu đó không được thực hiện bằng văn bản thì Hội đồng xét xử phải yêu cầu họ cung cấp văn bản, vì theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Đối với người làm chứng: thì Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định:

“1. Việc hỏi phải được tiến hành riêng đối với từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó.

Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng.

Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.

Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.

Trường hợp có căn cứ xác định người làm chứng, người thân thích của họ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm thì Hội đồng xét xử phải quyết định biện pháp bảo vệ họ theo quy định của Bộ luật này và pháp luật khác có liên quan.

Trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông”.

Theo quy định thì khi hỏi người làm chứng phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó. Thực tiễn xét xử cho thấy hầu như các Toà án thực hiện không đúng quy định tại khoản 1 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về việc cách ly người làm chứng mà thường để những người làm chứng ngồi luôn trong phòng xử án, người làm chứng này nghe được lời khai của người làm chứng khác, thậm chí khi lời khai của người làm chứng này mâu thuẫn với lời khai của người làm chứng khác còn phải tiến hành đối chất giữa những người làm chứng. Hiện nay các hội trường xét xử của Tòa án cũng không có đủ điều kiện để bảo đảm yêu cầu “không để những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi trước đó”. Đây cũng là vấn đề khó khăn khi xét hỏi đối với người làm chứng, đòi hỏi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải chủ động, linh hoạt trong từng vụ án cụ thể, nếu thấy cần thiết phải cách ly người làm chứng thì cũng cần phải áp dụng biện pháp cánh ly người làm chứng để bảo đảm khách quan trong xét hỏi.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì khi hỏi người làm chứng, phải hỏi rõ quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Kiểm sát viên yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết vụ án mà họ biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Cũng như đối với việc hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, nếu người làm chứng không trả lời hoặc không khai tại phiên toà thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể tự mình hoặc yêu cầu Kiểm sát viên công bố lời khai của họ tại Cơ quan điều tra. Khác với quy định tại khoản 3 Điều 211 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì tại Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không còn quy định “người làm chứng là người chưa thành niên”. Khi hỏi người làm chứng, Thẩm phán hoặc Kiểm sát viên cần chú ý vấn đề hỏi để làm rõ vì sao họ lại biết được tình tiết đó, nếu họ không trả lời được vì sao lại biết thì lời khai của người làm chứng đó không được dùng làm chứng cứ.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự thì, trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật. Đây là quy định cần thiết, nhằm bảo đảm an toàn cho người làm chứng trong những trường hợp cần thiết. Với quy định này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Kiểm sát viên cần đề nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn cho người làm chứng trong những trường hợp cần thiết.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì “Trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông”. Đây là quy định hoàn toàn mới, trường hợp này có thể hiểu, vì một lý do bất khả kháng mà người làm chứng không thể đến phiên tòa được và cam đoan sẽ trả lời đúng sự thật những điều họ biết về tình tiết của vụ án qua điện thoại hoặc mạng viễn thông hoặc mạng máy tính và phải bảo đảm việc hỏi và trả lời là công khai mọi người có thể được nghe thấy. Để thực hiện được điều này, thì các phòng xét xử hiện nay cần được nâng cấp hiện đại cho phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành.

Đối với người giám định, người định giá tài sản: Theo quy định tại Điều 316 thì:

“1. Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa yêu cầu người giám định, người định giá tài sản trình bày kết luận của mình về vấn đề được giám định, định giá tài sản. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ để đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản.

Kiểm sát viên, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án.

Trường hợp người giám định, người định giá tài sản không có mặt tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định, định giá tài sản.

Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại, định giá lại tài sản”.

Theo quy định thì người giám định, người định giá không bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa mà tùy từng trường hợp nếu xét thấy sự có mặt của người giám định, người định giá tại phiên tòa là cần thiết thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc Kiểm sát viên đề nghị chủ tọa phiên tòa cho triệu tập người giám định, người định giá đến để xét hỏi. Việc hỏi người giám định tại phiên tòa chỉ được tiến hành sau khi người giám định, người định giá trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định, định giá giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám định hoặc kết quả của Hội đồng định giá tài sản và cũng chỉ được hỏi những gì còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định. Nếu người giám định, người định giá vắng mặt và sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án thì chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc yêu cầu Kiểm sát viên công bố kết luận giám định hoặc kết quả định giá. Việc công bố kết luận giám định hoặc kết quả định giá trong trường hợp người giám định, người định giá không có mặt tại phiên tòa là bắt buộc.

Tại phiên tòa, sau khi nghe người giám định, người định giá trình bày kết luận giám định, kết quả định giá; nghe người giám định, người định giá giải thích bổ sung, nghe những người khác có ý kiến về kết luận giám định, kết quả định giá; nếu xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Trong trường hợp này thì phải hoãn phiên tòa để giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Thực tiễn xét xử cho thấy, có nhiều vụ án đã có kết luận giám định và định giá sai gây bất lợi cho bị cáo hoặc thiệt hại cho người bị hại nên sau khi xét hỏi cặn kẽ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phải hoãn phiên tòa cho đi giám định, định giá lại, như vụ:

Nguyễn Thị H “trộm cắp tài sản” tại khu Công nghiệp Samsung huyện Yên Phong Bắc Ninh. Cấp sơ thẩm đã căn cứ vào kết quả định giá của Hội đồng định giá huyện Yên phong định giá tài sản bị cáo trộm cắp trên 200 triệu nên đã áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138 BLHS xử phạt bị cáo 05 năm tù. Tại phiên tòa bị cáo trình bày giá trị tài sản bị cáo trộm cắp chưa đến 50 triệu chứ không phải trên 200 triệu như kết quả định giá. Hội đồng xét xử đã xem xét và cho hoãn phiên tòa yêu cầu định giá lại, kết quả là số tài sản bị cáo trộm cắp chỉ có 44 triệu đồng nên đã áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS để xét xử đối với bị cáo.

Hay vụ án Nguyễn Văn Đ phạm tội “cố ý gây thương tích”, Kết luận giám định pháp y thương tích đã giám định cả vết mổ lại để gỡ dính của người bị hại để xác định thương tật của người bị hại bị mất là 72%. Cũng tại phiên tòa, sau khi yêu cầu giám định viên giải thích về vết mổ lại để gỡ dính là như thế nào? Thì Giám định viên đã thừa nhận vết mổ này không phải là thương tích do bị cáo gây ra nên đã đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để giảm định lại. Kết quả giám định lại thì tỷ lệ thương tật của người bị hại chỉ là 31%.

Tùy theo tính chất của từng vụ án, thì ngoài việc xét hỏi những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử có thể quyết định xem xét những vật chứng có liên quan đến vụ án. Theo quy định tại Điều 312 Bộ luật tố tụng 2015 thì vật chứng có thể được xem xét tại phiên tòa nếu mang được đến phiên tòa, đối với vật chứng cồng kềnh không thể mang được đến phiên tòa thì Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Việc xem xét vật chứng tại chỗ được lập biên bản theo quy định tại Điều 133. Trong quá trình xem xét vật chứng thì Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng. Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.

Bên cạnh việc xem xét vật chứng, thì thực tiễn cho thấy có nhiều vụ án người bào chữa hoặc những người tham gia tố tụng khác còn cung cấp những nội dung ghi âm, ghi hình có âm thanh hay bị cáo tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình… Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử nên quyết định việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa.

Cũng qua xét hỏi, đôi khi các lời khai về địa điểm, hiện trường nơi gây án có những điểm mâu thuẫn hoặc chưa rõ ràng thì Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến nơi đó.

Việc xem xét tại chỗ được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Trong thời gian qua, một số vụ án oan xảy ra như vụ Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, vụ Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận mà nguyên nhân gây ra oan sai chính là việc các Điều tra viên đã có hành vi ép cung, dùng nhục hình, việc tranh tụng tại phiên tòa không được bảo đảm dẫn đến Nguyễn Thanh Chấn phải ngồi tù oan 10 năm còn Huỳnh Văn Nén phải ngồi tù oan tới 17 năm và như một phản ứng dây chuyền dẫn đến rất nhiều vụ án hình sự khi ra Tòa xét xử các bị cáo đều phản cung và cho rằng bản thân bị ép cung, dùng nhục hình, gây rất nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ khi xét xử. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng 2015 đã quy định một điều mới là Điều 317 “Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến” quy định như sau:

“Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử”. Quy định này là hết sức cần thiết thể hiện sự công khai, bình đẳng trong tranh tụng, giúp cho Hội đồng xét xử đánh giá và sử dụng đúng các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa làm cơ sở cho việc ra Bản án hoặc các Quyết định của Hội đồng xét xử. Chỉ khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có yêu cầu xét hỏi thì kết thúc việc xét hỏi; nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.

Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có những quy định hết sức quan trọng dành cho Tòa án đó là quy định tại Điều 251. Tạm ngừng phiên tòa theo đó:

“1. Việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;

b) Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa…”

Theo quy định trên, nếu trong quá trình xét hỏi căn cứ lời khai của các bên nếu thấy cần thiết phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì Tòa án có quyền ngừng phiên tòa để tiến hành các hoạt động nêu trên theo quy định tại Điều 252. Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ.

“Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các hoạt động:

Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp;

Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án;

Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa;

Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án;

Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản;

Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án”.

Đây là quy định mới, xong hết sức quan trọng và cần thiết, mà theo đó tại giai đoạn xét hỏi nếu thấy cần Tòa án có quyền tự mình thu thập chứng cứ để xem xét, đánh giá, sử dụng chứng cứ một cách khánh quan, kịp thời, tiết kiệm thời gian xét xử, bảo đảm được tính khách quan cũng như bảo đảm nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tóm lại: Để làm đúng vai trò của Chủ tọa phiên tòa là người điều hành xét hỏi và bảo đảm cho việc tranh luận được diễn ra tại giai đoạn xét hỏi thì trong việc xét hỏi tại phiên toà, chủ tọa phiên tòa không nên hỏi nhiều mà chỉ nêu vấn đề bảo đảm tính bao trùm, đầy đủ, toàn diện để Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa hỏi. Trong quá trình xét hỏi chủ tọa phiên toà là người điều hành. Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa có quyền đưa ra những bằng chứng mới để chứng minh có tội cũng như chứng minh vô tội. Trong quá trình xét hỏi cũng là quá trình tranh luận. Những người tham gia tố tụng có thể trình bày quan điểm của mình về vụ án, tranh luận với Kiểm sát viên về những vấn đề gỡ tội hoặc buộc tội.

(Còn nữa).

Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của Thẩm phán (Kỳ I)

Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của Thẩm phán (Kỳ II)

Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ IV)

Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của Thẩm phán (kỳ cuối)…


LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH ANTV

Hình ảnh văn phòng bào chữa