Tin tức mới
Luật sư Trần Minh Hùng, đoàn luật sư TP HCM, cho biết, dù không thống kê con số chính xác nhưng trong khoảng 5 năm trở lại đây, mỗi năm văn phòng của anh hỗ trợ khoảng 50 người lập di chúc và độ tuổi của khách hàng ngày càng trẻ hóa. Trước đây, độ tuổi thông thường của người Việt khi lập di chúc là 60, nay đã phổ biến tuổi 40. Thi thoảng có những thân chủ mới 30 tuổi.
Văn phòng luật của ông Hùng từng tiếp nhận trường hợp một lập trình viên tên Trí, 35 tuổi, có vợ và hai con. Khách hàng này có một bảo hiểm nhân thọ, người thụ thưởng là vợ, ngoài ra còn có một căn nhà và một tỷ đồng tiền mặt. Người này lập di chúc để nhà lại cho vợ con và một tỷ đồng cho bố mẹ sau khi phát hiện mình mắc bệnh hiểm nghèo.
Theo luật sư Hùng, ngày này người dân có sự hiểu biết cao hơn về pháp luật, đồng thời, nhiều người trẻ làm vài công việc cùng lúc, dẫn đến việc họ tạo dựng được khối tài sản lớn khi còn trẻ. Họ nhìn thấy được các nguy cơ tranh chấp cũng như xu hướng xã hội hiện đại nên đã tính đến việc lập di chúc từ khá sớm.
"Các yếu tố nói trên đã góp phần làm cho những người này có cái nhìn sâu rộng hơn về bản thân và trách nhiệm với gia đình, nên họ đã bắt đầu có suy nghĩ và quyết định lập di chúc", ông Hùng phân tích.
• Có phần sở hữu riêng, sở hữu chung và hệ thống công trình hạ tầng phục vụ cho nhu cầu chung của các tổ chức, cá nhân;
• Có giấy chứng nhận;
• Không thuộc diện đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về quyền sở hữu;
• Đang trong thời hạn sở hữu nhà đối với trường hợp sở hữu nhà có thời hạn;
• Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật
• Không thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo giải tỏa, phá dỡ nhà ở của cơ quan có thẩm quyền
Mặt khác, hai bên đã cam kết về thời gian bàn giao nhà và thanh toán tiền trong giấy cam kết. Bên chuyển nhượng đã nhiều lần vi phạm nghĩa vụ của mình. Hiện tại bạn cũng đã nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bạn là chủ sở hữu hợp pháp đối với nhà và quyền sử dụng đất. Bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu bên chuyển nhượng bàn giao nhà và thanh toán nốt tiền để chấm dứt giao dịch. Trường hợp nếu bạn đã khiếu nại lên phường mà không giải quyết được, bạn có thể nộp đơn khởi kiện lên Tòa án cấp huyện nơi có đất yêu cầu bên chuyển nhượng thực hiện hợp đồng.
Theo quy định tại điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì bạn nộp đơn xin ly hôn tại tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn cư trú nếu bạn đơn phương ly hôn và tại nơi chồng bạn cư trú hoặc nơi bạn cư trú nếu vợ chồng bạn thuận tình ly hôn.
Căn cứ theo quy định tại Điều 16 Bộ luật lao động năm 2012 quy định như sau:
“Điều 16. Hình thức hợp đồng lao động
1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.”
Như vậy, theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012 thì hiện nay đối với những công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng thì các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.
Thứ hai, từ năm 2021 chỉ được giao kết bằng lời nói với HĐLĐ thời hạn dưới 1 tháng
Căn cứ theo quy định tại Điều 14 Bộ luật lao động năm 2019 quy định như sau:
“Điều 14. Hình thức hợp đồng lao động
1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản.
Hợp đồng tặng cho bất động sản và chia thừa kế theo pháp luật
Câu hỏi: Hợp đồng tặng cho bất động sản và chia thừa kế theo pháp luật
Gia đình tôi có một miếng đất thổ cư do bố tôi đứng tên có diện tích 120m2 chưa xây nhà trên đó. Năm 2012 bố tôi có nói là khi nào tôi lấy vợ thì cho tôi miếng đất đó để hai vợ chồng tôi xây nhà ở nhưng đến năm 2015 bố tôi mất và không để lại di chúc. Cuối năm 2016 tôi lấy vợ. Hiện tại, tôi đang muốn làm thủ tục sang tên miếng đất đó để vợ chồng tôi xây nhà ở. Mẹ tôi đã đồng ý rồi nhưng hai anh trai của tôi không đồng ý và đòi chia phần đất đó. Vậy xin hỏi trường hợp của tôi phải giải quyết như thế nào? Việc bố tôi nói cho tôi miếng đất đó có được tính là di chúc miệng hay không?
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã quan tâm và gửi câu hỏi đến hộp thư tư vấn của VPLS GIA ĐÌNH. Về vấn đề của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau:
Câu hỏi: Kinh chào các Luật sư, tên tôi là Lê Thị M, tôi xin được hỏi Luật sư vấn đề như sau: Gia đình tôi có hai chị em, mẹ tôi mất từ khi tôi 15 tuổi, từ đó đến nay bố tôi vẫn một mình gà trống nuôi con, không đi thêm bước nữa. Bố tôi có một căn nhà trên diện tích 1000m2 ở quê, hồi nhỏ cả gia đình tôi sống ở đó, lớn lên chúng tôi lập gia đình và lên thành phố sống, bố tôi cũng sống cùng chị em tôi trên thành phố nên diện tích đất này nhờ một người bà con trong họ trông nom hộ. Đầu năm 2017, bố tôi bị cảm và mất đột ngột nên không để lại di chúc phân chia di sản cho chị em tôi. Tôi có tìm hiểu thì được biết trường hợp của gia đình tôi phải chia thừa kế theo pháp luật nhưng tôi cũng chưa rõ lắm về vấn đề này.
Vậy Luật sư có thể cho tôi biết Pháp luật hiện hành quy định thế nào về chia thừa kế theo quy định pháp luật? Đối với trường hợp của gia đình tôi thì sẽ chia thừa kế như thế nào cho hợp pháp. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Trả lời: Tôi xin thay mặt VPLS GIA ĐÌNH gửi lời cảm ơn chị đã gửi câu hỏi về cho hộp thư tư vấn của Công ty, về vấn đề thừa kế thep pháp luật mà bạn đang phân vân, thắc mắc, tôi xin được giải đáp như sau:
Tài sản thừa kế có phải chia khi ly hôn không?
Sau khi đã xác định được tài sản thừa kế là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng thì áp dụng nguyên tắc chia tài sản sau khi ly hôn theo quy định như sau:
Đối với tài sản thừa kế là tài sản riêng của vợ chồng, tài sản thừa kế sẽ không phải chia khi ly hôn mà thuộc quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng ( theo khoản 4 Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014).
Trong trường hợp tài sản thừa kế được xác định là tài sản chung thì về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có quyền thỏa thuận với nhau về phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được chia tài sản chung thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản sau khi ly hôn. Khi đó, Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý chia tài sản chung của vợ chồng như sau:
• Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng luật chia tài sản theo quy định. Nguyên tắc cơ bản là chia đôi cho mỗi bên vợ chồng, trong đó có tính đến các yếu tố như công sức đóng góp của mỗi bên vợ chồng vào khối tài sản chung, yếu tố lỗi dẫn đến việc vợ chồng phải ly hôn,…
- Bịa đặt, sỉ nhục, chửi rủa, một cách thô bỉ, tục tĩu, lăng mạ, lột quần áo giữa đám đông… nhằm vào nhân cách danh dự với tính chất hạ thấp nhân cách, bôi nhọ danh dự của người bị hại, đồng thời làm cho người bị hại cảm thấy nhục nhã trước người khác.
- Hành vi bỉ ổi (có hoặc không kèm lời nói thô tục) với chính bản thân mình hoặc người bị hại trước đám đông để bêu rếu. Để làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực như bắt trói, tra khảo
Tại điều 171 Bộ luật hình sự 2015 chỉ quy định tội cướp giật tài sản như sau: “Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì…” Như vậy, nhà làm luật cũng không mô tả cụ thể dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản mà chỉ nêu tội danh.
Trên thực tế có rất nhiều quan điểm về tội danh này. Cụ thể, có quan điểm cho rằng: “cướp giật tài sản là nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát”. Hoặc “tội cướp giật giật tài sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai” hay “tội cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản”.
Theo lý luận và thực tiễn của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, có thể thấy: Cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng giật lấy tài sản trong tay người khác hoặc đang trong sự quản lý của người có trách nhiệm quản lý về tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát. Ở đây, không có hành vi dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn nào khác để uy hiếp tinh thần người quản lý tài sản. Nếu có hành vi này thì có thể xem xét ở tội Cướp tài sản hoặc cưỡng đoạt tài sản.