Tin tức mới

Trường hợp 1: Nếu 2 căn nhà trên mà không thuộc quyền sở hữu của cha bạn tức là cha bạn không có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì 2 căn nhà trên không phải di sản của cha bạn và không được đem ra chia thừa kế.
Trường hợp 2: 2 căn nhà thuộc sở hữu của cha bạn đồng nghĩa với việc 2 căn nhà là di sản để chia thừa kế.
Thứ nhất, hợp đồng tặng cho ngôi nhà giữa cha bạn và bạn không có hiệu lực pháp lý. Do hợp đồng tặng cho bất động sản (quyền sử dụng đất gắn liền với quyền sở hữu nhà ở) pháp luật quy định phải được lập bằng văn bản và có công chứng chứng thực. Vậy nên, hợp đồng này sẽ vô hiệu, và các bên sẽ trả lại cho nhau những gì đã nhận. Như vậy 2 ngôi nhà trên là vẫn là di sản thừa kế của cha bạn.
Thứ hai, cha bạn mất không để lại di chúc, vì vậy di sản thừa kế được chia theo pháp luật.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 thì những người thuộc diện thừa kế trước tiên là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”

Tham khảo tình huống luật sư tư vấn trực tuyến về pháp luật Hình sự

Câu hỏi - Có hành vi xúc phạm danh dự người khác thì bị xử lý như thế nào?

Xin chào luật sư VPLS GIA ĐÌNH! Xin nhờ luật sư tư vấn giúp. Gia đình G mất tài sản, G có nghi ngờ và nói với nhau nghe anh A làm việc trên và anh B tiêu thụ tài sản mất trộm. Việc trên bị C và D nghe thấy và nói với làng xóm xung quanh, khẳng định là anh A và B cùng thực hiện việc trộm cắp trên. A, B làm đơn kiện G về việc xúc phạm danh dự. Xin hỏi, với việc xúc phạm danh dự trên thì người chịu trách nhiệm có phải là G tôi không? Cám ơn luật sư! Mong nhận được phản hồi sớm từ luật sư!

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến VPLS GIA ĐÌNH, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Điều 623 BLDS 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu chia thừa kế “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Trong thực tiễn, khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ tạo tình trạng áp dụng không thống nhất khi xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế, đặc biệt là thừa kế quyền sử dụng đất.
Ngoài ra BLDS 2015 còn quy định: “thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”. Do đó, quy định này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, phải hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết… để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế.
Về di sản thừa kế.
Theo quy định tại Điều 612 BLDS: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản riêng của người chết trong tài sản chung với người khác. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Như vậy, quyền tài sản nằm trong khái niệm về tài sản. Cho nên cần phải hiểu khái niệm di sản còn bao gồm cả các quyền về tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị… Một thực tế hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về di sản dẫn đến tình trạng các vụ án thực tế hiện nay phải xét xử lại do xác định di sản không chính xác và đầy đủ.
Căn cứ Điều 133 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội Đe dọa giết người:
“1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.”
Từ quy định này có thể thấy: nếu người gửi tin nhắn cho nạn nhân có kèm theo những hành động cụ thể khiến nạn nhân biết và tin rằng nếu không quay lại làm thì hành vi giết người sẽ xảy ra thì người gửi tin nhắn có thể sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tội đe dọa giết người.
Tuy nhiên, nếu họ chỉ nhắn tin như vậy chứ không có các hành động cụ thể thì chưa thể coi là dấu hiệu của tội đe dọa giết người.
1. Sau khi xác định Tòa án có thẩm quyền, người khởi kiện gửi hồ sơ khởi kiện đến Tòa án.
2. Tòa án có trách nhiệm cấp ngay cho người khởi kiện giấy xác nhận đã nhận đơn.
3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện có đủ điều kiện thụ lý hay không. Đồng thời, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện để người khởi kiện đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí.
5. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Khi đó, Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án và giải quyết vụ án theo đúng trình tự pháp luật.http://luatsubaochuatphcm.com
hoản 1, Điều 89, Luật Hôn nhân Gia đình quy định căn cứ cho ly hôn: “Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn”. Như vậy, nếu cuộc hôn nhân của chị được Tòa án đánh giá là “tình trạng trầm trọng” thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết cho ly hôn
 
Theo mục 8, Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối caohướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, giải thích như sau:
1. Được coi là tình trạng hôn nhân của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần;
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần;
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.
Có thể thấy việc nhận định “Hạnh phúc hôn nhân không đạt được/ Đời sống chung không thể kéo dài” là một khái niệm mang tính cảm nhận cá nhân. Do đó dù các mâu thuẫn không thể hiện ra bên ngoài nhưng vợ chồng cảm nhận thấy đời sống chung không thể kéo dài thì tại sao lại không ly hôn.
Điều 623 BLDS 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu chia thừa kế “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Trong thực tiễn, khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ tạo tình trạng áp dụng không thống nhất khi xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế, đặc biệt là thừa kế quyền sử dụng đất.
Ngoài ra BLDS 2015 còn quy định: “thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”. Do đó, quy định này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, phải hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết… để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế.
Luật sư Gia Đình trả lời: Theo thông tin bạn cung cấp thì giữa hai người không còn quan hệ vợ chồng. Hành vi chửi bới, đánh đập của người chồng cũ có dấu hiệu phạm tội gây rối trật tự công cộng, tội làm nhục người khác và tội cố ý gây thương tích, nên tùy theo mức độ hậu quả xảy ra có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự.
Trước mắt bạn nên làm đơn trình báo công an, UBND phường nơi xảy ra vụ việc và công an, UBND phường nơi người chồng cũ cư trú để chính quyền địa phương có biện pháp răn đe, giáo dục người chồng cũ và có biện pháp bảo vệ chị của bạn.
Nên lưu số điện thoại của tổ trưởng dân phố, tổ trưởng phụ nữ, công an khu vực, trực ban công an phường nơi cư trú để khi 

Nhiều người cho rằng, mua nhà chung cư sau khi hết thời hạn thì sẽ bị mất trắng, nên họ không muốn bỏ ra một số tiền lớn rồi sau này không có tài sản gì. Nhưng thực tế thì không phải như vậy, vì theo khoản 1 Điều 99 Luật Nhà ở 2014 quy định rằng: “Thời hạn sử dụng nhà chung cư được xác định căn cứ vào cấp công trình xây dựng và kết luận kiểm định chất lượng của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà chung cư theo quy định tại khoản 2 Điều này. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí kinh phí để thực hiện kiểm định chất lượng nhà ở.” Và sau khi chung cư hết hạn thì chủ sở hữu vẫn được đảm bảo quyền lợi của mình theo quy định pháp luật và hoàn toàn không mất trắng.

1. Thời hạn sử dụng nhà chung cư

Khoản 1 Điều 99 Luật Nhà ở 2014 quy định:         

Theo quy định của pháp luật hiện hành, có một số chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm nêu trên.Ví dụ:
Tại Điều 9 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về việc xử lý đối với hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng chứng minh nhân dân như sau:
“………
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Sử dụng chứng minh nhân dân của người khác để thực hiện hành vi trái quy định của pháp luật;
b) Tẩy xóa, sửa chữa chứng minh nhân dân;
c) Thuê, mượn hoặc cho người khác thuê, mượn chứng minh nhân dân để thực hiện hành vi trái quy định của pháp luật.
3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Khai man, giả mạo hồ sơ, cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật để được cấp chứng minh nhân dân;
b) Làm giả chứng minh nhân dân;
c) Sử dụng chứng minh nhân dân giả.
4. Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với hành vi thế chấp chứng minh nhân dân để thực hiện hành vi trái quy định của pháp luật.