Luật sư bào chữa hung khí nguy hiểm trong tội cố ý gây thương tích?

 
1. Hung khí nguy hiểm trong tội cố ý gây thương tích?
Hung khí nguy hiểm là gì?
Hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.
Căn cứ Tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hung khí nguy hiểm nêu trên.
Tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn:
Về khái niệm “vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự
– Vũ khí là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ).
– Phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.
– Về công cụ, dụng cụ
Ví dụ: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn…
– Về vật mà người phạm tội chế tạo ra
Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ…
– Về vật có sẵn trong tự nhiên
Ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt…
– Thủ đoạn nguy hiểm là thủ đoạn đã được hướng dẫn tại điểm 5.1 mục 5 phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP).
Ví dụ: Theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tôi cao thì dao nhọn là phương tiện nguy hiểm và đã được A sử dụng gây thương tích cho B thì thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm”.
Dùng hung khí nguy hiểm trọng tội cố ý gây thương tích?
Căn cứ vào các quy định trên, “dùng hung khí nguy hiểm” trong tội cố ý gây thương tích là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm. “Vũ khí” là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định sô’ 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ).
“Phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công. Dùng dao nhọn gây thương tích cho người khác sẽ bị áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm”.
 
2. Dùng vũ khí đập vào đầu người khác gây thường tích có được xem là dùng hung khí nguy hiểm được quy định tại tội cố ý gây thương tích hay không?
Tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999, Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Để xem xét hành vi dùng vũ khí đập vào đầu người khác gây thương tích có phải là dùng hung khí nguy hiểm được quy định tại tội cố ý gây thương tích hay không, cần phải xem xét hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hay không.
Thứ nhất, mặt khách quan
- Hành vi khách quan: Hành vi khách quan trong trường hợp này là hành vi dùng vũ khí đập vào đầu người khác.
- Công cụ, phương tiện sử dụng: Công cụ, phương tiện trong câu hỏi chỉ nêu là vũ khí chứ chưa xác định rõ đó là loại nào.
+ Đối với hành vi phạm tội xảy ra trước ngày 01/1/2018, áp dụng BLHS năm 1999. Điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 chỉ quy định: “Dùng hung khí nguy hiểm”. Theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, hung khí nguy hiểm là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm có khả năng gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.
+ Đối với hành vi phạm tội xảy ra từ ngày 01/1/2018, áp dụng BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm”. Vũ khí và hung khí nguy hiểm được quy định tách riêng. Tuy nhiên, chưa có văn bản nào hướng dẫn về “hung khí nguy hiểm” theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Nếu người phạm tội sử dụng các công cụ, phương tiện có tính nguy hiểm cao thì phần nào có thể xác định người phạm tội mong muốn cho nạn nhân chết. Ngược lại, nếu người phạm tội chỉ lựa chọn loại công cụ, phương tiện ít nguy hiểm đến tính mạng thì phần nào không mong muốn nạn nhân chết. Vì vậy, dựa vào việc người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, có thể xác định được là người phạm tội mong muốn giết người hay chỉ gây thương tích.
- Vị trí trên cơ thể bị thương tích: Vùng đầu bị tấn công được xem là bộ phận xung yếu trên cơ thể.
- Mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công: Để xác định một hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hay giết người, còn dựa vào mức độ tấn công với cường độ mạnh hay yếu cùng với vị trí tấn công trên cơ thể xem hành vi đó có dồn dập và cường độ tấn công mạnh không?
- Hậu quả: Câu hỏi chưa nêu rõ hậu quả của hành vi dùng vũ khí đập vào đầu người khác. Nếu là hành vi cố ý gây thương tích thì tỷ lệ thương tật từ 11 % trở lên hoặc dưới 11% nhưng dùng hung khí nguy hiểm, trong đó có vũ khí (Điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999); dưới 11% nhưng dùng vũ khí, hung khí nguy hiểm (Điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Thứ hai, chủ thể: Câu hỏi chưa nêu rõ người thực hiện hành vi dùng vũ khí đập vào đầu người khác là ai. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
Thứ ba, khách thể: Là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người.
Thứ tư, mặt chủ quan: Câu hỏi chưa nêu rõ các tình tiết của sự việc nên chưa thể xác định được ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi dùng vũ khí đập vào đầu người khác như thế nào. Đối với tội cố ý gây thương tích, phải có lỗi cố ý trực tiếp (Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là gây nguy hại cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hành vi đó sẽ xảy ra) hoặc lỗi cố ý gián tiếp (Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiềm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn những vẫn có ý thức để mặc nó xảy ra).
Như vậy, để xác định hành vi dùng vũ khí đập vào đầu người khác có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích dùng hung khí nguy hiểm hay không cần xem xét nhiều yếu tố cụ thể như đã phân tích ở trên. Nếu không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi trên có thể bị xử phạt hành chính theo điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình về xâm hại đến sức khỏe của người khác với mức phạt tiền từ 2 000 000 đồng đến 3 000 000 đồng.
3. Sử dụng mũ bảo hiểm hoặc ghế nhựa đánh người khác có phải đi tù không?
Hiện nay, trong cuộc sống xuất phát từ những mâu thuẫn không thể dung hòa được mà xảy ra nhiều cuộc xô xát dẫn đến hậu quả một bên hoặc cả hai bên đều bị thương tích. Theo thống kê tại Tòa án số lượng những vụ án về cố ý gây thương tích cũng như nguyên nhân của những vụ án này rất phức tạp. Số người tham gia ở mỗi vụ là khác nhau, những vụ án đơn giản có thể mỗi bên 1-2 người, tuy nhiên những vụ phức tạp hơn thì số người tham gia sẽ đông hơn. Qua bài viết này, đội ngũ chuyên viên Luật sư của văn phòng Luật sư Thủ Đô xin được phân tích bình luận về tội cố ý gây thương tích dưới góc nhìn của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
– Thứ nhất, đối hành vi nhiều người đánh cùng thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho người khác
Hành vi đánh hội đồng là một hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo quy định tại khoản 1, Điều 134 thì trong trường hợp giám định tỉ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% nhưng tội phạm thực hiện những hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội từ điểm a đến điểm o, khoản 1, Điều 134 thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích.
Như vậy, các trường hợp do mâu thuẫn mà sử dụng mũ bảo hiểm hoặc ghế nhựa để gây thương tích cho người khác tùy vào tỷ lệ thương tật của nạn nhân mà chủ thể thực hiện hành vi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
– Thứ hai, cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
+ Về mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoăc cố ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác của người khác là hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trái pháp luật. Trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11% thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định nếu thuộc ít nhất một trong các trường hợp: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người (ví dụ dùng dao nhọn,dao găm…), gây cố tật nhẹ cho nạn nhân là hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặ gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân để lại trạng thái thất thường, không thể chữa trị được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11 % khi thuộc một trong các trường hợp: làm mất bộ phận cơ thể của nạn nhân, làm mất chức năng bộ phận cơ thể của nạn nhân, làm ảnh hưởng đến thẩm mĩ của nạn nhân… Phạm tội nhiều lần đối với cùng 1 người hoặc đối với nhiều người
+ Về mặt chủ quan: Người thực hiện hành vi đối với tội này là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi trái pháp luật , thấy trước được hậu quả của hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
+ Về mặt chủ thể: Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi phạm tội, theo quy định của Luật Hình sự họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đó.Chủ thể của tội phạm này phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật Hình sự. Người phạm tội có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
+ Về mặt khách thể: Là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người.
– Thứ ba, về hình phạt với tội cố ý gây thương tích hoặc cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định cụ thể như sau:
+ Một là, người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;
b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;
h) Có tổ chức;
i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;
m) Có tính chất côn đồ;
n) Tái phạm nguy hiểm;
o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
+ Hai là, phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
+ Ba là, phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.
+ Bốn là, phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
+ Năm là, phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
+ Sáu là, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
+ Ngoài ra, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
 
4. Những đồ vật nào được coi là hung khí nguy hiểm?
Hỏi: Tôi muốn biết các loại đồ vật nào được coi là hung khí nguy hiểm sử dụng trong hành vi phạm tội theo quy định của BLHS 1999?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì hung khí nguy hiểm là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm có khả năng gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Vũ khí là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ), gồm: vũ khí quân dụng (súng ngắn, súng trường, súng liên thanh), vũ khí thể thao (súng trường, súng ngắn thể thao, súng hơi...), súng săn, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, giáo, mác, mã tấu...).
Phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công.
Chẳng hạn: Về công cụ, dụng cụ có: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...; về vật mà người phạm tội chế tạo ra có thanh sắt mài nhọn, côn gỗ; về vật có sẵn trong tự nhiên có: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt...
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
 
 

Hình ảnh văn phòng bào chữa