Luật sư phân tích việc cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?


1. Phân tích việc cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
 
Nội dung đề nghị tư vấn: Em muốn hỏi trường hợp như sau: Mẹ e có làm ăn với ông Q trong suốt thời gian dài, nhưng do buôn bán không được nên đã thiếu ông Q 20 cây bột ( 20 triệu) lúc đầu vẫn cho thiếu vì vẫn còn làm ăn nhưng khi mẹ e mua ít lại thì ông Q không chịu bán và đòi mẹ em trả hơn phân nữa số tiền đã nợ nhưng do hoàn cảnh khó khăn mẹ em xin trả dần là mỗi tháng trả 400 ngàn mà ông Q không chịu nói mẹ e là chiếm đoạt tài sản, vậy mẹ em có phải như ông Q nói không, nếu không mẹ em có thể thưa lại ông Q về tội vu khống được không??? em xin hết mong tổ tư vấn luật giúp em.
Chân thành cảm ơn.
Luật sư Gia Đình trả lời:
Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
…”
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.
Theo thông tin bạn cung cấp thì hành vi của mẹ bạn không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ là quan hệ mua bán dân sự. Do vậy, ông Q nói mẹ bạn chiếm đoạt tài sản là không có căn cứ.
Điều 156 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội vu khống như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
…”
Hành vi vu khống là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi của ông Q chỉ đơn thuần là nói mẹ bạn phạm tội, không tố cáo và chưa gây thiệt hại gì nên chưa có căn cứ cấu thành tội vu khống.
 
2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có được hưởng án treo?
 
Hỏi: Bạn tôi bi Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện truy tố về tội lừa đảo theo Điều 139 khoản 2 điểm e. Bạn tôi đã khắc phục hậu quả, là lao động chính đang nuôi 02 con nhỏ dưới 6 tuổi chưa có tiền án tiền sự, gia đình có ông nội và bố đẻ có công với cách mạng. Hành vi này mức án thế nào, có được hưởng án treo không?
Trả lời có tính chất tham khảo
Chào bạn!
Khoản 2 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Bên cạnh đó, Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về Án treo cụ thể như sau:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự.”
Như vậy, trong trường hợp nói trên, bạn của bạn bị Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện truy tố về tội lừa đảo theo Điều 139 khoản 2 điểm e “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng” và tùy thuộc vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bạn của bạn có thể bị Tòa án nhân dân tuyên phạt hình phạt tù với mức hình phạt từ 2 đến 7 năm tù.
Mặt khác, nếu hành vi phạm tội nói trên của bạn của bạn bị Tòa án xử phạt tù nhưng không quá ba năm. Bạn của bạn có nhân thân tốt, các tình tiết mà bạn kể trên của bạn của bạn được Tòa án xác định là các tình tiết giảm nhẹ và nếu Tòa án xét thấy không cần phải bắt bạn của bạn phải chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án có thể cho bạn của bạn hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
 
3. Dùng giấy tờ giả lừa đảo, phạm tội gì?
Khi xử lý, các cơ quan tố tụng thiếu thống nhất về tội danh của người vi phạm: Có ý kiến cho rằng chỉ có thể xử lý hình sự người vi phạm về một tội là lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng phải xử lý về cả hai tội… Theo Điều 139 BLHS, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ đoạn gian dối được coi là dùng công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm của người phạm tội. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện khác nhau để lừa được người khác. Nếu phương tiện, công cụ mà người phạm tội sử dụng cấu thành một tội phạm cụ thể thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội. Trường hợp làm giả giấy tờ và nếu hành vi này cấu thành tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trường hợp này cũng giống trường hợp sử dụng súng quân dụng để giết người thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Về lý luận, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành vật chất nhưng không vì thế mà cho rằng người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì không cấu thành tội này. Cũng như đối với các tội phạm cấu thành vật chất khác được thực hiện do cố ý, hậu quả chưa xảy ra là ngoài ý muốn của người phạm tội. Nếu cho rằng đối với tội cấu thành vật chất, hậu quả chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm, có lẽ BLHS cũng không cần quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nữa. Nếu người phạm tội mới chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) chưa giao dịch với người bị hại thì trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản này mới ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 139 BLHS thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người phạm tội đã chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) đã giao dịch với người bị hại nhưng người bị hại phát hiện, không giao tài sản thì trường hợp này là phạm tội chưa đạt. Người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phân biệt thuộc khoản nào của Điều 139 BLHS. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, tòa sẽ áp dụng thêm Điều 18 BLHS (phạm tội chưa đạt). Trở lại vụ việc báo nêu, H. mới đến văn phòng công chứng để công chứng giấy tờ giả thì bị phát hiện; H. chưa đưa giấy tờ giả cho ông N. nên với tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, trường hợp của H. là phạm tội chưa đạt (chưa công chứng được). Còn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi của H. ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. H. có ý định chiếm đoạt 200 triệu đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng) nên H. bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
 
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.

Hình ảnh văn phòng bào chữa