Luật sư tranh tụng tại sao gây thương tích nhẹ cho người khác lại bị phạt tù?

1.Hành vi đánh người như thế nào sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Các luật sư cho tôi hỏi: Cháu nhà tôi cãi nhau với một người bạn cùng lớp, sau đó có dẫn đến xô xát. Cháu tôi đã đánh bạn cùng lớp dẫn đến gây thương tích 10%. Gia đình tôi cũng đã sang gia đình nhà cháu kia thăm hỏi và có nhã ý sẽ chịu toàn bộ tiền viện phí, bồi thường sức khỏe nhưng gia đình kia vẫn không đồng ý. Gia đình nhà kia vẫn quyết định khởi kiện cháu tôi ra tòa nên tôi rất lo lắng vì cháu đang còn đi học. Xin hỏi với tội đánh nhau gây thương tích 10% của cháu tôi có bị xử lý hình sự không?
Với câu hỏi của bạn, Văn Phòng Luật Sư Gia Đình tư vấn như sau (câu trả lời chỉ mang tính tham khảo):
Theo khoản 2, Điều 23, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 qui định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng; mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng; mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng; hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Dựa vào tình tiết vụ việc, cháu trai của bạn thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng. Theo khoản 1, Điều 104, BLHS quy định: Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến dưới 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu thàng đến ba năm: “ Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người…”.
Căn cứ vào quy định này, còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nếu cháu bạn gây thương tích 10% mà không sử dụng hung khí nguy hiểm hoặc phạm tội nhiều lần… thì cháu bạn mới không bị xử lý hình sự.
2. Đánh người không gây thương tích? Xử phạt hành chính đánh người?
1. Xử phạt trường hợp đánh người nhưng không gây thương tích
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư, có thể cho tôi hỏi một số vấn đề được không? Cháu gái tôi 3 tuổi bị chó nhà hàng xóm cắn. Gia đình tôi và nhà này vốn có mâu thuẫn từ trước. Khi chó cắn cháu tôi chủ nhân không chịu trách nhiệm mà còn chửi mẹ tôi. Vì vậy chị tôi là mẹ của bé vì nóng giận có xảy ra ẩu đả với chủ nhân con chó. Trong quá trình đó chị tôi không hề sử dụng vũ khí, không gây thương tật cho đối phương. Vậy xin luật sư giải đáp giúp tôi, nếu chủ nhân con chó kiện chị tôi thì chị có phải chiụ trách nhiệm gì không?
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất: Về việc cháu bạn bị chó cắn:
Căn cứ Điều 603 Bộ luật dân sự 2015 quy định bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra như sau:
“1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”
Như vậy, cần xác định cháu bạn bị chó cắn có phải lỗi từ phía cháu bạn không (ví dụ như cố tình trêu chó làm cho chó cắn…), nếu như việc cháu bị chó cắn xuất phát từ lỗi do cháu thì sẽ không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ chủ nhân của con chó. Còn nếu như cháu chị không có lỗi gì trong việc bị chó cắn thì chủ nhân của con chó này sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con chó gây ra.
Thứ hai: Việc chị bạn đánh người chủ con chó:
Căn cứ Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Nếu chưa đến mức độ truy cứu trách nhiệm hình sự, chị bạ sẽ bị xử phạt hành chính hành vi đánh nhau theo quy định tại điểm a) Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:
“2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;”
Ngoài ra, nếu người hàng xóm bị thiệt hại về sức khỏe thì chị của bạn sẽ phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho người hàng xóm.
3. Gây thương tích nhẹ cho người khác lại bị phạt tù?
Tôi muốn biết vì sao có trường hợp đánh gây thương tích nhẹ đã bị đi tù, nhưng có người đánh mạnh tay hơn lại chỉ bị phạt hành chính? 
Luật sư tư vấn
Căn cứ khoản 1 điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở mức độ nhẹ (dưới 11%) vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người.
2. Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm.
3. Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.
4. Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình.
5. Có tổ chức.
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
7. Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
8. Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê.
9. Có tính chất côn đồ.
10. Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Theo khoản 1 điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại khoản 1 các điều 134 nêu trên khi "có yêu cầu" của bị hại hoặc người đại diện cho bị hại dưới 18 tuổi, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Như vậy, trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong 10 trường hợp nêu trên mà người bị hại hoặc người đại diện của bị hại (dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết) không có yêu cầu khởi tố thì người gây ra thương tích chỉ bị xử phạt hành chính.
Một trong những yếu tố cấu thành tội phạm này là người cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp thuộc Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, do vậy để có căn cứ xác định A có phạm tội hay không cần phải xem xét các yếu tố khách quan như tình huống cụ thể lúc xảy ra xô xát, mức độ thương tật của bạn và tính chất hành vi của A. Trong trường hợp này bạn có thể tố giác hành vi của A lên cơ quan điều tra để cơ quan điều tra trực tiếp xem xét các yếu tố trên. Trong trường hợp hành vi chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử lý vi phạm hành chính.
4. Dùng dao chém người có phạm tội nặng không?
Tóm tắt câu hỏi:
Gia đình em hiện tại đang tranh chấp đất với một gia đình khác. Trong lúc 2 nhà đang cãi nhau thì gia đình tranh chấp với nhà em đã chém ba của em vào tay. Ba của em nhập viện và bác sĩ chẩn đoán ba em bị vết thương đứt khối cơ phía trong cẳng tay trái và mẻ xương trụ trái. Gia đình em muốn kiện gia đình đó thì có được không ? Với chẩn đoán các vết thương của ba em như bác sỹ đã nói thì tỷ lệ thương tật có phải là 11% không ?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Văn Phòng Luật Sư Gia Đình, chúng tôi đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Thứ nhất, với hành vi cố ý gây thương tích của gia bên kia và có dung hung khí nguy hiểm (vì hành vi ở đây là chém) nên không phải căn cứ vào tỉ lệ thương tật đã trên 11% hay chưa mà hành vi đó đã là hành vi phạm tội theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự rồi. Do vậy đối với trường hợp này, có thể đến tố giác hành vi phạm tội đối với cơ quan có thẩm quyền và yêu cầu khởi tố theo Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Điều 104 “Bộ luật hình sự năm 2015” (sửa đổi, bổ sung năm 2009) như sau:
Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Thứ hai, việc xác định tỷ lệ thương tật hay tỷ lệ tổn hại sức khỏe thì phải tiến hành giám định theo quy định của pháp luật, và tỉ lệ thương tật của bố bạn có ý nghĩa trong việc xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Với những gì bạn cung cấp thì chúng tôi không thể xác định được cho bạn tỷ lệ thương tật là bao nhiêu phần trăm. Và trong quá trình giải quyết vụ án việc giám định để xác định tỷ lệ thương tật thuộc trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền.
 
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 
 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: luatsuthanhpho@gmail.com
http://www.luatsugiadinh.net. vn
http://www.luatsuthanhpho.com
 
 

Hình ảnh văn phòng bào chữa