Quyền Bào Chữa Của Luật Sư Trong Vụ Án Hình Sự

Những điểm mới về quyền bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Tại khoản 5, Ðiều 103 Hiến pháp quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo'”. Quy định này là nền tảng pháp lý cơ bản để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo được thực thi trên thực tế. Ðồng thời đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ với Viện kiểm sát nhân dân, hướng tới nền tố tụng tranh tụng công khai, bình đẳng, hướng tới giải quyết vụ án khách quan, đúng sự thật, toàn diện và triệt để.

Trên nền tảng nguyên tắc Hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Đây là quy định mới, căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền bào chữa nói riêng và quyền công dân, quyền con người nói chung theo Hiến định, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Như vậy có thể thấy BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ mối quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án là bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, hiệu quả và thực thi.

BLTTHS 2015 đã dành một mục lớn để quy định về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa (mục 5, chương XXI - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa). Trong đó, quy định cụ thể từ trình tự phát biểu tranh luận, đến phần đối đáp giữa người tham gia tố tụng (người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác) với kiểm sát viên giữ quyền công tố, quy định cho phép bị cáo được nói lời sau cùng để tự bào chữa; trong chương này luật cũng quy định Hội đồng xét xử không được hạn chế thời gian đối đáp, tranh luận giữa các bên.

Việc tôn trọng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong đó có quyền của người bào chữa từ phía Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là một đảm bảo quan trọng cho việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ðặc biệt việc thực hiện và bảo đảm tốt quy định về tranh tụng tại phiên tòa, kết quả tranh tụng là cơ sở để ra phán quyết là một biện pháp bảo đảm quan trọng không thể thiếu, là yêu cầu tất yếu của quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bảo chữa nói riêng trong tố tụng hình sự.

BLTTHS năm 2015 thể hiện bước tiến bộ trong quy định về quyền bào chữa. Đối với BLTTHS năm 2003, quyền bào chữa xuất hiện sớm nhất kể từ thời điểm một người bị tạm giữ (Điều 48). Còn BLTTHS năm 2015, thì quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất hiện sớm hơn đó là kể từ thời điểm một người bị bắt (Điều 58 và Điều 74). Quy định này giúp phía bị “buộc tội” được bình đẳng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi một người bị bắt, sự xuất hiện của người bào chữa giúp họ ổn định tâm lý, kịp thời bảo vệ quyền lợi chính đáng, góp phần giúp cơ quan có thẩm quyền xử lý vụ án chính xác, tránh những sai sót có thể xảy ra. BLTTHS 2015 đã mở ra và ghi nhận việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị bắt được đảm bảo quyền bào chữa của mình nhưng trên thực tế, việc áp dụng quy định này gặp khó khăn nhất định. Thực tiễn hành nghề cho thấy, người bị bắt rất mong muốn được mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nhưng việc để liên lạc với Luật sư đã rất khó khăn, thậm chí khi người nhà, người thân thích của người bị bắt đến gặp Luật sư đề nghị Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị bắt, Luật sư thực hiện các thủ tục để gặp và làm việc thì bị cơ quan điều tra từ chối. Rõ ràng, BLTTHS 2015 đã mở rộng quyền của người bị bắt để đảm bảo quyền bào chữa cho chính họ, tuy nhiên, chưa có cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện này, vì vậy trên thực tế còn gặp rất những áp dụng tùy nghi, cảm tính.

Với quy định tại điểm i, khoản 2, điều 60, BLTTHS 2015, bị can có quyền: “Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”. Quy định này là điểm mới quan trọng đảm bảo quyền cơ bản của bị can, bị cáo, là sự ghi nhận về mặt pháp lý để bị can, bị cáo thực hiện các quyền của mình một cách bình đẳng. Tuy nhiên, thực tiễn hành nghề, chúng tôi thấy rằng, việc bị can, bị cáo được trình bày một cách bình đẳng diễn biến, các tình tiết khách quan của vụ án đã là điều rất khó khăn, có những vụ án, bị can, bị cáo được định hướng sẵn để có thể trả lời. Điều này xuất phát từ tâm lý hoang mang, lo sợ khi bị tạm giam, tạm giữ, nhưng một phần cũng xuất phát từ những hạn chế của các điều tra viên. Khi tham gia hỏi cung các bị cáo, Luật sư mang giấy trắng, bút viết để có thể ghi chép lại lời khai cũng bị điều tra viên xét hỏi, vậy, cơ chế nào để đảm bảo cho các bị can, bị cáo thực hiện quyền “đọc, ghi chép bản sao tài liệu…khi có yêu cầu”, thậm chí, Luật sư xin được sao chụp các bút lục, lời khai trong quá trình điều tra nhưng cũng gặp không ít những khó khăn. Chúng tôi cho rằng, quy định này chưa thực sự được áp dụng được trong thực tiễn hoặc nếu được áp dụng thì cơ chế nào sẽ đảm bảo việc các bị can, bị cáo được thực hiện điều này.

Theo quy định tại điều 305, BLTTHS 2015 quy định: Chủ tọa phiên tòa phải hỏi kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không”. Quy định này nhằm bảo đảm sự bình đẳng trước Tòa án giữa đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc giải quyết các yêu cầu, cung cấp nguồn chứng cứ cũng như đưa ra chứng cứ trực tiếp. Tuy nhiên, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét chỉ được giải quyết tại thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng lại không được quy định trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy, trong quá trình xét xử, sau khi kết thúc phần thủ tục tại phiên tòa mà người tham gia tố tụng muốn yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét thì lại không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu. Trong một số trường hợp, hội đồng xét xử cũng xem xét và quyết định tạm dừng phiên tòa để thẩm tra, xem xét vật chứng hoặc xem xét yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng có phù hợp và cần thiết hay không? Điều này không những gây ra sự lãng phí về thời gian mà còn gây tâm lý không ổn định, bức xúc cho những người tham gia tố tụng. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, khi phát hiện ra một số tình tiết mới (theo lời khai của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa), Luật sư có kiến nghị đề xuất để triệu tập người làm chứng hoặc yêu cầu xem xét vật chứng mới nhưng hầu hết các trường hợp Luật sư yêu cầu đều bị Hội đồng xét xử từ chối vì thấy rằng không cần thiết. Điều này không những ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và làm sáng tỏ bản chất của vụ án mà còn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc “gỡ tội”, đến kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là cần quy định như thế nào để Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiếp tục giải quyết vụ án, hay chỉ dừng lại ở quy định “bỏ lửng” khiến cho quyền bào chữa của bị cáo bị hạn chế?

Theo quy định hiện hành, thì việc xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện chủ yếu bởi hội đồng xét xử. Việc xét hỏi nhằm làm rõ những tình tiết dùng làm chứng cứ để truy tố bị cáo lại không phải là nhiệm vụ chính của Viện kiểm sát mà phụ thuộc vào hội đồng xét xử. Quy định như trên là chưa hợp lý, vì Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội nên kiểm sát viên phải thực hiện việc xét hỏi để bảo vệ sự buộc tội đó, người bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội, nên họ được thực hiện việc xét hỏi để bào chữa cho bị cáo. Trong khi đó, Tòa án đóng vai trò “trung gian”, chỉ xét xử và ra phán quyết thông qua đánh giá khách quan và căn cứ vào quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, trách nhiệm xác định các tình tiết buộc tội thuộc về Viện kiểm sát; trách nhiệm xác định các tình tiết gỡ tội thuộc về người bào chữa bị cáo; trách nhiệm xác định đầy đủ, khách quan các tình tiết buộc tội cũng như gỡ tội thuộc về Tòa án. Cho nên, khi tiến hành thủ tục xét hỏi, hội đồng xét xử chỉ lắng nghe và chủ tọa phiên tòa chỉ giữ quyền điều hành phiên tòa, quyết định cho ai hỏi ai, duy trì thời gian hỏi và có quyền cắt các ý kiến các câu hỏi không đúng trọng tâm. Hội đồng xét xử không được có những lời lẽ khẳng định hay phủ định bất cứ một vấn đề nào mà các bên tham gia tranh tụng nêu ra, cũng như không được đánh giá, nhận xét đúng sai ngay tại phiên tòa. Bởi lẽ, chức năng của Tòa án là xét xử thông qua việc xét hỏi, nghe các bên tranh luận, hội đồng xét xử sẽ đưa ra phán quyết bằng bản án nêu rõ hành vi của bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Việc hội đồng xét xử thể hiện quan điểm ngay tại phiên tòa sẽ ảnh hưởng đến việc tranh tụng giữa các bên, làm giảm hiệu quả tranh luận. Thực tiễn xét xử cho thấy, Hội đồng xét xử tập trung làm rõ các tình tiết có trong hồ sơ vụ án, sau đó, sẽ hỏi Kiểm sát viên và các luật sư có cần hỏi thêm gì không? Sau đó hội đồng xét xử sẽ điều hành và tiếp tục phiên tòa. Có những vụ án, hội đồng xét xử đã hỏi hết, kiểm sát viên thậm chí không hỏi thêm câu gì để làm rõ việc buộc tội của mình có đúng, có căn cứ hay không? Như vậy, quy định này, chúng tôi cho rằng chưa thực sự hợp lý để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng và đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Với vai trò là “trung gian”, chúng tôi cho rằng, cần quy định để Kiểm sát viên, người bào chữa thực hiện chức năng “buộc tội”, “gỡ tội” một cách khách quan và toàn diện hơn nữa.

Rất quan trọng và liên quan đến quyền bào chữa, “Quyền im lặng” của người bị tạm giữ, tạm giam là “quyền con người” nhằm thể hiện sự đối xử công bằng giữa điều tra viên, các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều phương tiện, biện pháp đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Khái niệm “quyền im lặng” được hiểu là: “Quyền không có một hành động gì trước sự việc đáng lẽ phải có thái độ, phải có phản ứng”. Im lặng không chỉ không nói, không lên tiếng mà còn không hành động gì. BLTTHS 2015 mặc dù chưa trực tiếp quy định quyền im lặng nhưng đã ghi nhận quyền này thông qua một số quy định tại điểm e, khoản 1, điều 58, điểm c, khoản 2, điều 59, điểm d, khoản 1, điều 60, điểm h, khoản 2, điều 61. Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Thậm chí, ngay tại phiên tòa, bị cáo cũng được đảm bảo thực hiện quyền này. Một số vụ án xét xử gần đây đã thể hiện “Quyền im lặng” một cách hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn hành nghề cho thấy, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo hầu như không được phổ biến quyền này và không được sử dụng quyền im lặng...

Trân trọng.

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụi Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Hình ảnh văn phòng bào chữa